Với 42 bài Thuyết minh về một loài hoa hoặc một loài cây, kèm theo dàn ý chi tiết, sẽ giúp các em học sinh lớp 8 có thêm nhiều vốn từ để hoàn thiện bài viết số 5 lớp 8 đề 4 thật hay, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Đồng thời, cũng giúp các em rèn kỹ năng viết bài văn thuyết minh hoa cúc, thuyết minh hoa ly, thuyết minh hoa sen, thuyết minh cây chuối, thuyết minh cây vải… thật hay. Chi tiết mời các em cùng theo dõi 42 bài thuyết minh loài hoa, thuyết minh loài cây trong bài viết dưới đây:
Giới thiệu về một loài hoa
Thuyết minh về hoa cúc
Dàn ý thuyết minh về hoa cúc
1. Mở bài
Giới thiệu chung về hoa cúc
2. Thân bài
– Nguồn gốc của hoa cúc
– Giải thích ý nghĩa cái tên (hoa cúc)
– Đặc điểm của hoa cúc
– Sự sinh trưởng và phát triển của hoa cúc
– Cách thức trồng, chăm sóc hoa cúc
– Tác dụng, giá trị của hoa cúc trong đời sống
– Ý nghĩa tượng trưng của hoa cúc
3. Kết bài
Cảm nhận của em về hoa cúc
Thuyết minh hoa cúc – Mẫu 1
Trong thế giới của những loài thực vật, mỗi loại hoa, mỗi cành cây, nhánh cỏ lại mang những vẻ đẹp riêng, những ý nghĩa riêng mà chúng ta không phải ai cũng biết điều đó. Những loài hoa mỗi loại cây lại thể hiện những ý nghĩa riêng. Có những khi, chúng ta tặng cho nhau những bó hoa để thay cho những lời mình muốn nói, thay cho tấm lòng của chúng ta về những điều quan trọng mà chúng ta dành cho người con người thân yêu bên cạnh mình hay chỉ đơn giản là thay cho chúng ta nói lên những lời chúc tốt đẹp nhất dành cho đối phương. Và đối với em, em yêu nhất là những bông hoa cúc- loài hoa tượng trưng cho sự cao thượng và hoa cúc cũng được coi là hình ảnh đại diện mỗi khi chúng ta nhắc tới mùa thu.
Mùa thu tới mang theo những cơn gió heo may, cái lành lạnh của mùa thu mang tới bên khung cửa cũng là lúc chúng ta lại tìm những cánh hoa cúc nhỏ xinh về bên mình như một nét đẹp mà chỉ mùa thu mới có. Cúc được coi là một trong từ bình:mai- trúc- cúc- tùng. Đây là không chỉ là những hình ảnh đại diện cho bốn mùa còn là những hình ảnh tượng trưng cho cốt khi của những con người có cốt cách thanh tao. Hoa cúc tại sao lại nằm trong tứ bình? Đó là bởi vì hoa cúc không chỉ là loài hoa tượng trưng cho mùa thu mà hoa cúc còn tượng trưng cho sự vĩnh cửu, sự trường thọ mà biểu đạt cho ý nghĩa trên chính là những bông cúc trường thọ. Theo quan điểm của nhân dân, những bông hoa cúc khi bị khô héo đi, chúng chỉ bị lụi tàn ở trên cây chứ không bao giờ rụng xuống dưới mặt đất, cũng giống như hình ảnh của những người chính nhân quân tử chỉ có thể chết đứng trong sự ngay thẳng chứ không bao giờ chịu sự chèn ép, chết không được trong sạch. Bởi vậy nên cúc đã là hiện thân của người quân tử trong lòng những người yêu thiên nhiên và muốn tìm cho mình những ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Còn theo quan niệm của những dân gian, chắc hẳn chúng ta cũng đã từng nghe sự tích về cây hoa cúc. Cây hoa cúc cũng thể hiện sự hiểu thảo, báo đáp công ơn của cha mẹ, mỗi cánh hoa là mỗi ngày người mẹ được sống. Với những bông cúc có vô vàn những cánh hoa nhỏ xinh như vậy thì điều đó cũng có nghĩa là cha mẹ của chúng ta cũng sẽ luôn được hạnh phúc, trường thọ.
Những bông hoa cúc tuy được coi là đại diện, là hình ảnh của mùa thu, thế nhưng, chúng vẫn có thể nở quanh năm. Có rất nhiều những loại hoa cúc trong thế giới của chúng hiện nay. Nào là hoa cúc vàng, hoa cúc trắng, cúc vạn thọ, cúc tím. Với những người yêu hoa thì mỗi loại hoa cúc lại mang những ý nghĩa riêng biệt không giống nhau. Có lẽ chúng ta sử dụng những bông cúc có màu vàng nhiều nhất bởi màu sắc rực rỡ của nó. Màu vàng là màu tượng trưng cho tuổi trẻ, cho những khát vọng mãnh liệt của mỗi chúng ta. Cũng gần giống như những bông hoa cúc vàng, những bông hoa cúc trắng cũng mang trong mình vẻ đẹp riêng. Phía trên cùng là những cánh hoa nhỏ li ti xếp chồng lên nhau, mang trong mình mùi thơm thoang thoảng, đầy ý nhị. Không phô trương như những bông hoa hồng rực lửa, cúc chỉ có sự nhẹ nhàng, đằm thắm như hình ảnh của những người phụ nữ dịu dàng. Phía dưới là những đài hoa xanh biếc nâng đỡ những cánh hoa bên trên, . Chúng như bàn tay nhỏ bé, nâng niu từng cánh hoa giúp cho chúng có thể bám vào nhau, tạo nên vẻ đẹp của những bông cúc trong nắng nhẹ của những ngày thu- nhất là những ngày thu của tiết trời hà nội. cúc thường mọc thành từng cụm, những bông cúc thường có thể tươi trong nửa tháng mới tàn, thế nhưng chỉ vài ngày sau, những nụ hoa cúc đã bắt đầu nở rộ ở những nhánh bên cạnh. Vào những lúc như thế này, sức sống của những bông cúc mới mãnh liệt hơn bao giờ hết. hay như những bông cúc trường thọ, chúng gây nổi bật bởi hình dáng của mình. Chúng là những bông hoa to bằng cái bát ăn cơm, bông hoa nở rộ lên, mang ý nghĩa của sự vĩnh cửu. Có lẽ vì vậy mà những bông cúc trường thọ cũng được nhiều người ưu ái hơn so với những bông cúc khác. Chúng rất hay được mua trong những ngày lễ quan trọng như ngày cha mẹ hay ông bà trong những ngày mừng thọ.
Chính bởi những ý nghĩa như trên mà những bông hoa cúc được coi là một trong những hình ảnh được nhiều thi sĩ lấy đó làm chủ đề cho những sáng tác của mình. Những bài thơ về hoa cúc có lẽ chỉ đứng sau hoa hồng mà thôi.
Thuyết minh hoa cúc – Mẫu 2
Người xưa khi nói về những loài cây quý, thường thường đề cập đến tứ quý: Tùng, cúc, trúc, mai. Đây là bốn loài cây tượng trưng cho bốn mùa trong một năm, đồng thời cũng biểu tượng cho vẻ đẹp, khí phách của con người. Hình ảnh những loài cây này cũng được khắc họa trong rất nhiều những tranh ảnh, đá quý. Bên cạnh tùng, trúc, mai, những loài cây mang vẻ đẹp kiêu sa, tượng trưng cho người quân tử thì cúc lại mang một vẻ đẹp nhẹ nhàng, tinh tế, thanh khiết mà rất đỗi bình dị.
Hoa cúc có xuất xứ ở vùng có khí hậu ôn đới và những vùng có khí hậu nhiệt đới ẩm. Chính vì thế, đây là một loài hoa rất dễ mọc, phổ biến xuất hiện ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Tên gọi của hoa “cúc” bắt nguồn từ những câu chuyện của các nước phương Tây nhưng đặc biệt và thú vị nhất có lẽ là câu chuyện cổ tích của Việt Nam. Đó là câu chuyện về một cậu bé hiếu thảo đi tìm loại thuốc chữa bệnh cho cha. Vì muốn cha của mình sống lâu trăm tuổi, cậu đã tìm vị thuốc ấy, vượt qua bao khó khăn, cậu đã tìm được những bông hoa với màu vàng như rơm, đẹp tươi, nở nhiều vào mùa xuân, có hương thơm. Sau này, người ta gọi đó là hoa cúc hay hoa cúc vạn thọ, tượng trưng cho sự trường tồn vĩnh cửu như cái tên của nó.
Hoa cúc thuộc loại cây thân thảo, thường mọc thành từng khóm. Thân cây cúc mảnh dẻ, thanh mảnh, cúc có những chiếc lá đan xen lẫn nhau màu xanh đậm, xòe ra như hình những chiếc răng cưa. Hoa cúc có đặc trưng là cánh nhỏ, mỗi bông hoa đều có rất nhiều cánh hoa màu vàng ươm trông rất đẹp. Tất cả cánh hoa xếp đều quanh nhụy tạo thành một vòng tròn to. Hoa cúc cũng có rất nhiều loại khác nhau như hoa cúc trắng, hoa cúc vàng, cúc họa mi… Mỗi loài hoa, mỗi màu hoa lại được sử dụng trong những dịp khác nhau.
Việc trồng và chăm sóc loài hoa này cũng cần hết sức cẩn thận, tỉ mỉ, đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn cao. Nếu không theo một quy trình chuẩn, hoa ra sẽ không được đẹp như mong muốn hoặc sẽ có rất nhiều khiếm khuyết. Trước hết, bạn nên chọn giống cúc trồng sao cho phù hợp với điều kiện và khả năng chăm sóc. Trong quá trình chăm sóc, cần tưới nước đầy đủ và chăm sóc kĩ. Việc lựa chọn diện tích và đất trồng cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng vì mỗi loại cúc khác nhau sẽ có những loại đất trồng phù hợp, dễ phát triển. Việc chăm sóc bằng ánh nắng mặt trời cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển của hoa cúc. Cung cấp đủ nước, đủ ánh sáng sẽ giúp hoa cúc nhanh phát triển và sinh trưởng tốt hơn.
Hoa cúc có rất nhiều giá trị, công dụng khác nhau đối với sức khỏe của con người. Theo nghiên cứu khoa học, hoa cúc có chứa nhiều thành phần hoạt tính có lợi ích rất tốt. Hoa cúc được điều chế để làm thuốc đau đầu, viêm mũi rất tốt, đặc biệt là chứng đau nửa đầu. Ngoài ra, nó còn có tác dụng để chữa trị các bệnh về hô hấp, tiêu hóa, một số bệnh về phụ khoa. Đặc biệt, trà hoa cúc có tác dụng vô cùng tốt đối với việc chăm sóc và cải thiện sức khỏe con người. Có thể kết hợp làm trà hoa cúc với mật ong hay cam thảo để tăng hiệu quả của bài thuốc này. Thứ trà hoa cúc đặc biệt có tác dụng tốt đối với da, tóc và sức khỏe của con người. Ngoài ra, một số bộ phận của hoa cúc như nhụy hoa, cánh hoa có thể dùng để trang trí hay chế biến các món ăn rất tốt.
Hoa cúc từ xưa đến nay luôn là một trong bốn loài hoa quý trong tứ hoa, tượng trưng cho khí tiết, đức tính của người quân tử, trượng phu. Hoa cúc còn thể hiện sự hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Vì thế, trên bàn thờ của các gia đình, người ta thường sử dụng loài hoa này để thể hiện tấm lòng thành kính của người còn sống với người đã khuất. Hoa cúc vàng còn tượng trưng cho sự trường thọ, vĩnh cửu. Ngoài ra, hoa cúc còn tượng trưng cho những nguồn năng lượng dồi dào, tích cực, may mắn mà mọi nhà đều mong muốn.
Mỗi loài hoa đều có một vẻ đẹp, một ý nghĩa, một đặc tính riêng nhưng hoa cúc vẫn luôn là biểu tượng về vẻ đẹp của một loài hoa không quá kiêu sa, lộng lẫy, rất đỗi giản dị nhưng mang ý nghĩa tốt đẹp, tượng trưng cho nhiều điều tích cực trong cuộc sống.
Thuyết minh hoa ly
Hoa Ly là một loài hoa rất được ưa chuộng trên toàn thế giới bởi mùi hương và những ý nghĩa mà chúng mang lại. Nhưng không phải ai cũng hiểu được cặn kẽ về loài hoa này về ý nghĩa và lịch sử phát triển lâu dài của chúng. Vì vậy, chúng ta hãy cùng tìm hiểu rõ hơn về hoa Ly nhé! Vậy hoa Ly có nguồn gốc từ đâu?
Trung Quốc là nước trồng hoa Lily sớm nhất từ hàng trăm năm trước. Trong tài liệu cổ “Thần nông bản thảo” thì củ Lily có tác dụng thanh phế, nhuận táo, tư âm, thanh nhiệt. Vì vậy, từ lâu củ Lily ngoài tác dụng làm giống còn được dùng để ăn, làm thuốc chữa bệnh… Ban đầu, hoa Ly được trồng để lấy củ ăn, bắt đầu từ đời nhà Đường (Trung Quốc), nhưng vẻ đẹp và mùi hương quyến rũ của chúng đã được khẳng định qua những bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của Lily thời nhà Đường, nhà Tống qua các nhà thơ nổi tiếng. Vì thế, hoa Ly không chỉ được mọi người ưa chuộng về củ của chúng mà người ta còn thích thưởng thức vẻ đẹp của Lily.
Mặt khác, quá trình phát triển của hoa Ly cũng hết sức lâu dài. Cuối thế kỉ 16, các nhà thực vật học Anh đã phát hiện và đặt tên cho các giống Lily. Đầu thế kỉ 17 Lily được mang từ châu Âu đến châu Mỹ. Tiếp đến, sang thế kỉ 18 các giống Lily của Trung Quốc được mang sang châu Âu, do vẻ đẹp và mùi thơm hấp dẫn nên cây Lily đã nhanh chóng phát triển và được coi là cây hoa quan trọng của châu Âu, châu Mỹ. Đây là bước đầu cho thời kì hoa Ly được biết đến rộng rãi và được ưa chuộng trên toàn Thế Giới.
Vào cuối thế kỉ 19, bệnh Virut ở Lily lây lan mạnh, tưởng chừng cây Lily sẽ bị huỷ diệt. Đến đầu thế kỉ 20, khi người ta phát hiện ra giống Lily thơm ở Trung Quốc (L. regane) có khả năng chống chịu tốt với bệnh virut, giống này được nhập vào châu Âu và chúng đã được dùng vào việc lai tạo giống mới để tạo ra rất nhiều giống có tính thích ứng rộng, khả năng chống chịu sâu bệnh tốt, cây Lily lại được phát triển mạnh mẽ. Hiện nay, các giống hoa Ly rất đa dạng và phân bố khắp nơi trên Thế Giới.
Hiện nay, các giống hoa Ly rất đa dạng và phân bố khắp nơi trên Thế Giới. Một một hoa Ly trưởng thành có bảy bộ phận chính là rễ, thân, lá, hoa, củ, quả và hạt. Về phần rễ, hoa Ly có hai loại: rễ củ để hút nước và chất dinh dưỡng cho củ và rễ thân để nâng đỡ, hút nước và chất dinh dưỡng cho cây sinh sống. Củ của hoa ly nằm dưới mặt đất, nhiều lớp vải bên ngoài củ bọc lại thành lớp thân vảy. Ở thân chính của cây, thân trên mặt đất mang lá và hoa, phần dưới mặt đất mang rễ thân và củ con. Chiều cao thân chủ yếu quyết định bởi chiều dài đốt.
Trong điều kiện ánh sáng yếu, ngày dài, nhiệt độ thấp và xử lý trước khi bảo quản lâu đều có tác dụng kéo dài đốt thân. Ngược lại ánh sáng mạnh, ngày ngắn, nhiệt độ cao lại ức chế đốt kéo dài. Về phần lá, hoa ly có nhiều hình dạng lá khác nhau như hình mũi mác, hình oval, hình elip, hình trứng hoặc thuôn dài hoặc tròn dài… lá không có cuống hoặc cuống ngắn tùy thuộc vào từng giống, nhóm giống. Phần hoa, phần quan trọng nhất làm nên vẻ đẹp quyến rũ của chúng có màu sắc đa dạng, phong phú, có loại có hương thơm, loại không có hương thơm.
Hoa của hoa ly cũng có nhiều dạng khác nhau, chủ yếu là 3 dạng chính: Hoa hướng trên, hoa quay ngang và hoa rủ xuống. Hoa có 6 nhị dài, một nhụy chia làm 3 thuỳ, bầu hoa hình trụ. Quả ly có chiều dài từ 5 – 7m, bên trong có 3 ngăn, mỗi quả có vài trăm hạt. Khi chín, quả tự nứt ra thành 3 khía dọc theo quả và phóng thích hạt ra ngoài. Hạt dẹt, xung quanh có cánh mỏng, hình bán cầu hoặc 3 góc, bên trong hạt có chứa phôi. Khi gieo sẽ nảy mầm thành cây mới. Tất cả những thành phần này đã góp phần tạo nên một cây hoa Ly tuyệt đẹp, làm cho bất cứ ai cũng phải trầm trồ khen ngợi.
Hoa Ly phát triển mạnh mẽ trên đất thoát nước tốt, đất ẩm có axit nhẹ như đất hữu cơ làm từ mùn, đất tự nhiên. Nhiệt độ thích hợp để cây phát triển ban ngày là 20 – 25 độ C, ban đêm là 12 – 15 độ C. Ngoài ra, các giống lai phương Đông thời kỳ đầu thích hợp với nhiệt độ ban ngày 25 – 28 độ C, ban đêm 18 – 20 độ C. Dưới 18 độ C cây sinh trưởng kém, hoa dễ bị mù. Lily ưa cường độ ánh sáng ở mức trung bình, từ 12 – 15 nghìn lux. Vào mùa hè, nhóm lily châu Á và lily thơm cần che bớt 50% ánh sáng, nhóm phương Đông thì 70% ánh sáng.
Lily thích không khí ẩm ướt, độ ẩm thích hợp nhất là 80 – 85%, vào thời kì đầu nên tưới nhiều nước, đến thời kì ra hoa cần giảm lại. Khi trồng cần nhớ phải luôn giữ ẩm cho đất. Khi chăm cây,cần tưới ở phần gốc, tránh làm lá và nụ bị ướt. Ngoài ra cần sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt cho ly với chế độ tưới 30 phút/ngày. Việc bón phân cho hoa cũng cần tiến thành kịp thời, bạn dùng phân hữu cơ (NPK, lân) để bón từ khi cây được 20 ngày đến khi cây nở hoa với tần suất 10 ngày/lần. Hỗn hợp phân hòa với nước đem tưới đều lên cây, sau đó đem tưới lại bằng nước để rửa phần còn bám trên lá.
Bông hoa ly vừa có hương thơm, vừa có vẻ đẹp quyến rũ , có thể tận dụng trong trang trí, làm quà tặng lại có lịch sử lâu đời. Vì vậy, chúng trở thành một phần quan trọng trong đời sống của người Việt nói chung và toàn Thế Giới nói riêng bởi những câu chuyện, những biểu tượng đằng sau những bông hoa Ly.
Thuyết minh về loài hoa sen
Dàn ý thuyết minh hoa sen
I. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu về hoa sen/bông sen (loại hoa quen thuộc, đẹp, hương thơm…).
II. Thân bài
1. Khái quát chung về hoa sen
– Loài: thực vật thủy sinh, thân thảo, sống lâu năm.
– Môi trường sống: ao, hồ, thích nghi và phát triển ở Australia và phía nam châu Á.
– Phân loại: có nhiều loại trên thế giới nhưng phần lớn đã tuyệt chủng, còn lại phổ biến là hai loại: sen trắng, sen hồng.
– Phương pháp gieo trồng: bằng hạt, bằng thân rễ.
– Khả năng chịu rét cao.
2. Đặc điểm về hoa sen
– Rễ: mọc sâu trong lớp bùn ao, hồ, có thể kết thành củ sen.
– Thân: màu xanh, có nhiều gai nhỏ, giòn, có thể dài đến 1.5 mét.
– Lá: màu xanh, khá tròn, đường kính lớn, mọc nổi trên mặt nước hoặc cao khỏi mặt nước…
– Hoa: hoa to, mọc trên cuốn cao hơn mặt nước, nhiều cánh, cánh xếp chồng nhiều tầng quanh đài, màu sắc tùy loại (chủ yếu màu trắng, hồng), mềm mại…
– Đài: màu xanh, chứa nhiều hạt…
3. Vai trò của hoa sen
– Làm đẹp, trang trí cho khuôn viên, nội thất…
– Hầu hết các bộ phận của sen đều có thể góp phần tạo thành các vị thuốc.
– Lá sen có thể dùng trong ẩm thực: gói thực phẩm, tăng mùi thơm cho các món cơm, gạo nếp…
– Cánh hoa, tim sen, nhụy hoa sen đều có thể sấy khô hoặc ướp hương pha trà.
– Hạt sen là một loại thực phẩm bổ dưỡng có thể ăn sống, nấu chín, làm mứt…
– Ngó sen, củ sen đều là nguyên liệu cho các món ăn ngon, giàu dinh dưỡng.
4. Ý nghĩa hoa sen
– Sen là loài thực vật cung cấp nhiều nguyên liệu có ích cho cuộc sống.
– Là quốc hoa tượng trưng cho nét đẹp thanh tao, thuần túy của dân tộc Việt Nam.
– Một trong những biểu tượng của tôn giáo, tín ngưỡng.
III. Kết bài
– Nêu suy nghĩ, nhận định cá nhân về hoa sen, bông sen (loài cây có ích, mang nhiều ý nghĩa…).
– Đưa ra lời khuyên, lời kêu gọi (bảo vệ, gìn giữ…).
Thuyết minh về loài hoa sen – Mẫu 1
“Trong đầm gì đẹp bằng senLá xanh bông trắng lại chen nhị vàngNhị vàng bông trắng lá xanhGần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
Bài ca dao về hoa sen gợi biết bao niềm yêu mến và tự hào về loài hoa hương đồng gió nội. Nhắc đến hoa sen là nhắc đến một loài hoa đẹp đẽ, thánh thiện, hoàn toàn thoát tục; một loài hoa trở thành biểu tượng cho tâm hồn và nhân phẩm Việt Nam.
Hoa sen là một trong những loài hoa truyền thống lâu đời nhất ở phương Đông. Đây là loài thực vật sống dưới nước có nguồn gốc Á châu và chiếm giữ một vị trí cổ xưa trong tất cả nền văn hóa, đặc biệt là của Phật giáo. Khi nhắc đến Phật giáo là nhắc đến hình ảnh Phật ngồi trên đài sen thơm ngát. Phật giáo đã có hơn hai nghìn năm trăm năm, vậy ắt hẳn tuổi của loài sen còn nhiều hơn thế.
Một bông hoa sen ngắm lần lượt từ ngoài vào trong ta sẽ thấy “bông trắng, nhị vàng”. Cánh hoa sen rất giống với hình trái tim, đáy tim hướng lên trên. Một bông sen có nhiều lớp cánh xếp lớp vào nhau; đến khi nở cũng ngần ấy cánh hoa xoè ra khoe sắc. Cánh hoa sen có thể có màu hồng hoặc trắng. Bên trong cánh sen là nhị sen màu vàng tươi rất nổi bật. Khi sen đã già, nhị đã tàn có thể thấy rõ bát sen với những hạt sen lớn bằng đầu ngón tay. Toàn bộ bông sen được đỡ bằng một cuống hoa dài và đưa sen mọc khỏi trên mặt nước. Thân sen được cấu tạo rất đặc biệt. Bẻ đôi thân sen sẽ thấy hai nửa thân còn được nối với nhau bằng những sợi tơ dài. Chính đặc điểm đó của sen đã gợi hứng để đại thi hào Nguyễn Du viết nên câu thơ tuyệt bút: “Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”. Bởi vậy, sen còn là biểu tượng của lòng thuỷ chung son sắt. Lá sen có hình tròn, rất rộng và có màu xanh. Mặt lá có một lớp nhung trắng, khi ánh nắng chiếu vào, lớp nhung trắng ấy óng ánh li ti mờ ảo rất đẹp. Hoa sen, lá sen, thân sen được nuôi sống bởi củ sen nằm sâu dưới lòng bùn. Hoa sen mọc trong bùn, sống trong bùn nhưng vượt lên khỏi nó để hướng đến mặt trời mà không hề bị bùn làm ô nhiễm, vấy bẩn. Thật đúng như lời ca dao: “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Trong bức tranh làng quê Việt Nam, sẽ thật thiếu sót nếu thiếu đi hình ảnh đầm sen bát ngát, mênh mông. Có điều ấy bởi từ Bắc vào Nam, sen có mặt khắp mọi nơi, gắn bó rất mật thiết với đời sống con người Việt Nam như cây tre, cây đa… vậy. Mùa hạ đến giữa cái nóng như thiêu như đốt, đi làm đồng hay đang trên đường đi xa, người ta chỉ ao ước đến gần một đầm sen. Hương sen thơm ngát, mát lành thoảng qua làm dịu đi cái nóng nực, oi nồng. Thêm nữa, nhìn hình ảnh đầm sen rờn sóng, lá sen lấp loáng, hoa sen lung linh, chỉ vậy thôi đã như cảnh tiên khiến người ta quên cả mệt mỏi. Vài cậu bé con tinh nghịch ngắt chiếc lá sen che lên đầu làm nón, ngất ngưởng ngồi lên lưng trâu đi về đường làng, hình ảnh ấy cũng thật nên thơ nên hoạ. Không chỉ vậy, nhắc đến hoa sen còn là nhắc đến một loài hoa quý. Hoa sen được dùng để làm đẹp cho những ngôi nhà đơn sơ, giản dị của người nông dân Việt Nam đồng thời làm sang cho những khu vườn kim chi ngọc diệp. Bên cạnh đó, sen còn là một món ăn rất ngon và bổ. Củ và ngó sen sau khi rửa sạch liền trở thành món ăn mát lành, một món đặc sản chốn đồng quê. Hạt sen cũng được dùng làm món ăn, vị thuốc công hiệu. Đặc biệt, nhị sen còn được dùng để ướp trà tạo nên thức trà sen nức tiếng. Sáng sớm, khi trời còn tinh sương, người ướp trà phải chèo thuyền ra hồ thả từng lá trà vào giữa bông sen rồi buộc nhẹ bông sen lại để chè được ngấm cái hương vị thơm lành của sen. Cầu kỳ hơn, có người còn đi thâu từng hạt sương đọng trên cánh hoa sen, lá sen đề làm nước hãm trà… Vậy mới biết, sen được con người yêu thích đến nhường nào.
Khi mùa hạ qua đi, sen dần tàn lụi. Sen chỉ thích hợp với môi trường có khí hậu ấm nóng bởi vậy khi thu đến đông về, sen tạm thu mình xuống lớp bùn lạnh để chờ xuân sang vươn chồi non biếc và mùa hè đến thì xoè hoa, khoe lá. Nếu ở miền Bắc, hoa sen chỉ nở vào mùa hè, thì ở hầu khắp miền Nam quanh năm đâu đâu cũng thấy sen khoe sắc thắm. Quê hương của Bác có tên là “Làng Sen” và có lẽ hoa sen đẹp nhất khi được ví với hình tượng Bác Hồ, người cha già dân tộc, vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta:
“Tháp Mười đẹp nhất bông senViệt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
Không chỉ có những giá trị thực dụng, sen còn thể hiện những ý nghĩa sâu sắc giàu tính triết lí. Sen sống trong bùn nhưng vẫn vươn lên trên lầy, toả hương thơm ngát. Sen có một sức sống mạnh mẽ đến kỳ lạ và tự tính của sen là tinh khiết, thanh thoát. Nó tượng trưng cho bản tính thân thiện, phong thái tao nhã, tinh thần “vươn dậy” trong mọi nghịch cảnh của con người Việt Nam. Đặc biệt trong tư tưởng Phật giáo, hoa sen được tôn quý và chiếm vị trí rất quan trọng bởi tôn giáo này quan niệm rằng bản thân bông sen đã thể hiện tinh thần “cư trần bất nhiễm trần” – ý nghĩa ấy biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiết và thánh thiện… Trong Phật giáo, phật tổ Thích Ca được sinh ra từ đóa sen vàng. Trong các công trình kiến trúc Phật giáo ở Việt Nam, sen luôn trở thành hình tượng nghệ thuật. Một trong những công trình kiến trúc tiêu biểu lấy cảm hứng từ hoa sen là chùa Một Cột. Theo truyền thuyết, ngôi chùa này được hình thành từ một giấc mộng đài sen của một vị vua triều Lý. Chùa có hình dáng hoa sen, mọc lên từ hồ nước, chỉ với “một cột” như một cọng sen. Tại đất nước Ai Cập, bông sen cũng được tôn thờ vì sự thanh khiết và thánh thiện. Đây là loài hoa duy nhất nở được trên dòng sông Nin huyền thoại bởi dòng chảy ở đây rất mạnh, các loài hoa khác đều bị vùi dập bởi sông nước nhưng riêng hoa sen thì khác, hoa sen có thể đâm chồi, nảy lộc và đem lại vẻ đẹp không gì sánh bằng cho con sông giàu màu sắc thần bí này.
Hãng hàng không quốc gia của Việt Nam, Vietnam Airlines đã chọn hình ảnh bông sen sáu cánh làm biểu tượng của mình sau bao thời gian chắt lọc, suy nghĩ. Đó cũng là biểu tượng mà người Việt Nam muốn cho bạn bè quốc tế trên khắp năm châu được biết đến. Đóa sen hồng giờ đã được nâng lên không trung, bay đến với khắp mọi nơi trên thế giới, mang niềm vui đoàn tụ, hạnh phúc, hòa bình và đã giúp khoảng cách giữa người và người, giữa các cộng đồng trên thế giới được xích lại gần nhau. Trong mắt của bạn bè thế giới, hình ảnh của bông sen sẽ in đậm và đọng lại trong tư tưởng của mọi người về một đất nước anh hùng, bất khuất dù phải trải qua bao cuộc bể dâu, bao trận chiến tang thương, khốc liệt nhưng giờ đây vẫn vững bước đi lên hội nhập với thế giới.
Thuyết minh về loài hoa sen – Mẫu 2
Có thể nói hoa sen từ lâu đã gắn với văn hoá tinh thần của người Việt. Hoa sen được ví đẹp như những người thiếu nữ Việt Nam, tượng trưng cho sự thanh cao giàu sức sống, biểu tượng của vẻ đẹp chân thực, giản dị, mộc mạc:
“Trong đầm gì đẹp bằng senLá xanh bông trắng lại chen nhị vàngNhị vàng, bông trắng, lá xanhGần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
Là người Việt Nam, hẳn ai cũng biết về bài ca dao trên và loài hoa quen thuộc được nói tới trong bài, một loài hoa đồng nội mộc mạc, giản dị, sống trong bùn lầy hôi tanh mà vẫn tỏa hương khoe sắc. Đó là hoa sen.
Nói đến hoa sen, ai cũng nhớ tới một loài hoa mộc mạc trong đầm, lá to, tròn nổi trên mặt nước. Thân và cuống của hoa đều có màu xanh. Búp sen có màu xanh lục, hình bầu dục. Khi nở, hoa sen màu hồng thắm, xen chút màu trắng. Nhị và nhụy sen màu vàng được gói kín bên trong tỏa hương thơm ngát. Đài sen nở to khi lá và nhị rụng còn trơ lại và phát triển thành bát sen.
Vào mùa hạt, chưa đi đến đầu làng, còn bước chân trên con đường cát sỏi bỏng rát, ta đã ngửi thấy hương thơm ngào ngạt của hoa sen bay trong gió quyện trong mùi lúa nếp thơm nồng như giục giã bước chân ai nhanh về quê mẹ. Những ngày rằm, mồng một hàng tháng, mùa hè sen được bán đắt hàng nhất trong các hàng hoa vì ai cũng hiểu sen tượng trưng cho tấm lòng thơm thảo, bình dị, mộc mạc của con cháu kính dâng lên tổ tiên, ông bà. Hương trầm quyện trong hương sen gợi nhớ về cõi linh thiêng, đẹp nhất. Cuối hạ những bông sen tàn trơ lại bát sen xanh to bằng bát cơm với những hạt sen già mẩy căng tròn. Mỗi bộ phận của sen đều có những công dụng hữu ích giúp cho con người. Hoa sen rất thơm dùng để ướp trà. Nếu bạn là người thích uống trà thì bạn không thể bỏ qua món chè sen (chè được ướp hương sen bằng cách cho chè vào hoa sen và buộc lại để qua đêm, hay cho nhị sen pha lẫn với chè). Nó vừa thơm vừa đậm đà, uống xong rất sảng khoái. Chè tâm sen (phần phôi xanh trong hạt sen) còn có tác dụng chữa bệnh mất ngủ rất tốt.
Hạt sen có thể ăn lúc non vừa ngọt vừa thơm, là món quà vặt của trẻ con thôn quê. Hạt sen già được các bà mẹ khéo tay nội trợ chế biến thành những món đặc sản nổi tiếng. Chè sen (nấu nhừ hạt sen rồi thả vào nồi bột sắn trong suốt) ăn vừa mát vừa bổ. Món mọc trong cỗ bàn chính là cách ninh nhừ hạt sen trong nồi xương lợn, thả những viên mọc nấm hương vào lẫn tạo nên hương vị béo thơm thật hấp dẫn. Trước đây món này chỉ dành cho vua chúa, quý tộc… mới được dùng.
Nếu bạn đi qua cánh đồng chỉ ngửi thấy mùi thơm của hoa sen thì với tôi hương thơm ấy lại gợi về những kỷ niệm bên gia đình bè bạn với hương vị của cốm làng Vòng dẻo thơm bọc trong những lá sen to mát dịu. Những ngày hè nóng bức lá sen đội đầu thay thế cho những chiếc nón, mũ quả là tuyệt diệu. Bọn trẻ chăn trâu coi đây là thú vui nhất khi đua nhau ngụp lặn dưới đầm để mò ngó sen (phần thân và củ sen nằm sâu dưới bùn nước).
Có thể nói hoa sen từ lâu đã gắn với văn hoá tinh thần của người Việt. Hoa sen được ví đẹp như những người thiếu nữ Việt Nam, tượng trưng cho sự thanh cao giàu sức sống, biểu tượng của vẻ đẹp chân thực, giản dị, mộc mạc.
Hình tượng đó đã đi vào ca dao thơ ca, lấy sen làm vẻ đẹp để tôn vinh so sánh với Bác Hồ.
“Tháp Mười đẹp nhất bông senViệt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
Sen còn là hoạ tiết chính trong các đồ vật trang trí trong các công trình văn hoá cổ, trong các bức tranh dân gian, các đồ vật trang nghiêm ở thủ đô Hà Nội. Chùa Một Cột nằm giữa hồ sen đã minh chứng cho sự quan trọng của hoa sen với đời sống của dân tộc ta. Và đặc biệt có cuộc thi đã lấy giải mang tên biểu tượng Bông sen vàng.
Có thể nói hoa sen là loài hoa đẹp, có nhiều lợi ích gắn bó với dân tộc Việt Nam từ bao đời nay. Vì vậy cứ nghĩ đến làng quê Việt Nam chúng ta lại nhớ đến hình ảnh bông sen nổi lên trên mặt nước, tỏa mùi hương thơm ngát… Một loài hoa đẹp, cao quý của đất nước Việt Nam.
Thuyết minh về loài hoa sen – Mẫu 3
Chạy dọc dải đất hình chữ S, đâu đâu ta cũng bắt gặp hình ảnh thân thuộc của bông sen bởi từ lâu sen đã trở thành quốc hoa của dân tộc. Thật vậy, sen như người thiếu nữ vừa có nhan sắc vừa có duyên, là biểu tượng đẹp cho con người Việt Nam.
Hoa sen đến từ đất nước Ấn Độ sau đó trải rộng ra khắp các quốc gia vùng Châu Á. Bén rễ trên mảnh đất Việt Nam, sen đã chiếm một vị trí không nhỏ:
“Tháp Mười đẹp nhất bông senViệt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
Sen ưa môi trường sống ẩm nơi đầm lầy, với thân hình mảnh dẻ, sen có thể thích ứng với cả thời tiết miền Bắc và miền Nam tổ quốc. Trong khi khí hậu Nam Bộ ấm áp, sen nở quanh năm thì ở vùng Bắc Bộ sen chỉ khoe sắc vào mùa hè. Đầu hạ, đầm sen được những chiếc lá to, xanh rờn như chiếc ô che kín mặt nước. Hoa sen mọc vươn lên lớp lá xanh mơn mởn ấy. Lúc đầu nụ hoa nhỏ như những mũi tên đâm ngược lên bầu trời. Tới khi hấp thụ đủ dưỡng chất từ lớp bùn màu mỡ, những lớp hoa cong cong như chiếc thuyền con, bung nở, từng cánh xếp chồng lên nhau. Cánh hoa mịn màng tựa nhung, màu hồng phớt dịu mắt kết hợp hài hòa với nhị hoa màu vàng tươi. Hương sen dìu dịu làm ngây ngất lòng người trong những trưa hè đổ lửa. Cánh hoa, nhị hoa ân cần ôm ấp chiếc nhụy bé xíu ở giữa. Sau này khi hoa sen tàn, chỉ còn lại đài sen xanh như cái bát chứa nhiều hạt sen to trong khi cánh hoa trở về với bùn đất. Có thể trồng sen từ thân rễ, rễ cây nhanh chóng nhú lên mang sự sống mới.
Ngắm nhìn bông sen bé nhỏ mà mấy ai biết rằng đóa sen ấy sẵn sàng hiến dâng cả cuộc đời cho con người. Gian phòng trở nên thanh lịch hơn khi được những đóa sen tô điểm. Sen cung cấp nhiều nhiên liệu cho những món ăn dân dã mà bổ dưỡng. Hạt sen có vị ngọt giòn là thức quà không thể thiếu của tuổi thơ hay trong mỗi nồi chè sen thơm ngào ngạt của mẹ. Tâm sen tuy đắng mà là bài thuốc hữu dụng chữa chứng mất ngủ, dùng để ướp trà sẽ được thưởng thức hương vị thanh đạm của chốn đồng quê. Lá sen mượt mà tôn thêm sức hấp dẫn của món cốm làng Vòng, khiến thức quà của lúa non mang một vị ngọt dịu, hương thơm thoang thoảng khó quên.
Sống trên môi trường nước nên sen có sức sống mạnh mẽ nên sen không dễ bị dịch bệnh nhưng người trồng cũng cần thường xuyên theo dõi để bắt sâu bệnh ăn lá. Dân gian có câu: “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” bởi vậy, sen cũng cần được chăm bón phân đúng liều lượng để tăng năng suất hạt. Sen dễ trồng và dễ chăm sóc nên được mọi người dân yêu quý, trân trọng.
Mỗi loài hoa đều mang trên mình ý nghĩa riêng. Ta biết tới hoa hồng tượng trưng cho tình yêu nồng nàn, hoa cúc gợi lòng hiếu thảo hay khí chất người quân tử… còn hoa sen biểu tượng cho vẻ đẹp, sức sống kiên cường của nhân phẩm con người, dân tộc. “ Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, đóa sen đẹp giản dị như người nông dân chất phác nhưng ở đó vẫn sáng lên tâm hồn cao đẹp – đó là sự gắn bó chung thủy, lòng yêu nước sâu sắc, khí chất bất khuất… Nét đẹp ấy không được phô diễn mà âm thầm ngấm trong từng dòng máu như hương sen nhè nhẹ, không nồng nàn như hương lan, hương huệ. Sen còn gắn liền với vị trí cao quý trong tôn giáo, hoa sen trở thành biểu tượng đẹp nơi Đức Phật tọa lạc. Mỗi người con xa quê hương nhớ về cố hương lại nhớ về đóa sen nhỏ mà kiêu dũng để lòng tràn đầy sức mạnh. Chính bởi vẻ đẹp dung dị đó, hoa sen trở thành nguồn cảm hứng của bao thi nhân và nghệ thuật.
Tạo hóa đã ban tặng cho con người loài hoa sen quý giá, với vẻ đẹp riêng, một lối sống riêng và nó luôn bất tử trong lòng người dân Việt Nam.
Thuyết minh về loài hoa sen – Mẫu 4
Thiên nhiên đã ban tặng cho dải đất hình chữ S nhiều điều kì diệu và tuyệt vời. Có lẽ một trong những điều tuyệt vời nhất mà thiên nhiên ban tặng cho dân tộc ta đó là hoa sen – loài hoa đã gắn bó với người dân Việt Nam từ bao đời nay, một loài hoa bình dị mà thiêng liêng đã trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam.
Hoa sen có nguồn gốc ở Châu Á, xuất phát từ Ấn Độ. Chẳng ai biết nó ra đời chính xác vào thời điểm nào, chỉ biết rằng nó là loại hoa có truyền thống lâu đời nhất ở phương Đông, nắm giữ một vị trí cổ xưa và quan trọng trong tất cả các nền văn hoá và đặc biệt của Phật giáo. Trong thời kì cổ đại, hoa sen là loài hoa mọc phổ biến dọc bờ sông Nin (Ai Cập) cùng với loài hoa súng có quan hệ gần gũi, mang cái tên: hoa sen xanh linh thiêng sông Nin. Và ở Việt Nam, nó trở thành một biểu tượng cao quý từ ngàn đời.
Hoa sen là một loài hoa rất quen thuộc và gần gũi với người dân Việt Nam. Hoa sen đẹp – một nét đẹp dung dị mà đặc biệt. Cánh hoa thon dài với những màu sắc tươi sáng, thường là trắng hay hồng nhạt, sờ vào rất mịn màng, êm tay. Màu sắc của cánh sen đậm dần từ trong ra ngoài. Bông sen khi chưa nở khép vào đầy e lệ như người con gái đang độ xuân thì. Khi hoa nở, những cánh hoa xoè rộng rực rỡ. Chính những cánh, nhuỵ đã tạo nên hình dáng một bông sen thanh thoát, nhã nhặn. Sen được đỡ bằng một cuống dài, giúp nó nổi lên khỏi mặt nước. Khi sen đã già, nhị đã tàn có thể thấy rõ bát sen với những hạt sen lớn bằng đầu ngón tay. Thân sen được cấu tạo rất đặc biệt, bẻ đôi thân sen sẽ thấy hai nửa thân còn được nối với nhau bằng những sợi tơ dài. Chính đặc điểm đó của sen đã gợi hứng để đại thi hào Nguyễn Du viết nên câu thơ tuyệt bút: “Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”. Bởi vậy, sen còn là biểu tượng của lòng thuỷ chung son sắt. Lá sen có hình tròn màu xanh thẫm, to và rộng. Trên bề mặt phủ một lớp nhung trắng óng ánh li ti mỗi khi đón nắng về.
Hoa sen có nhiều loại đó là sen hồng, sen đỏ, sen xanh và sen trắng trong đó có hai loại phổ biến là: hoa sen trắng và hoa sen hồng. Mỗi loài sen lại mang ý nghĩa biểu tượng khác nhau. Hoa sen hồng là hoa sen tối cao và được coi là hoa sen đích thực của Đức Phật. Hoa sen đỏ tượng trưng cho trái tim, tình yêu nguyên thủy và sự từ bi. Với sen trắng, người ta dễ dàng cảm nhận được nét bình dị, thanh cao, thuần khiết, phảng phất cả nét tôn nghiêm. Màu trắng của hoa sen chính là biểu tượng cho sự thuần khiết, thanh cao. Nếu sen trắng tượng trưng cho sự trong sáng, sự thuần khiết của tâm hồn thì sen xanh lại mang đến ý nghĩa về sức mạnh của ý chí, nghị lực kiên cường và niềm tin bất diệt. Nó cũng là biểu tượng của tự do, bình đẳng và bác ái.
Sen có rất nhiều công dụng, sen chính là một món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Trước tiên hoa sen có tác dụng để trang trí. Hoa sen được cắm vào những chiếc bình xinh xắn là vật trang trí trong nhà rất đẹp. Bên cạnh đó từ sen, ta có thể chế biến nhiều thực phẩm bổ dưỡng, nhiều loại thuốc đặc trị và hữu dụng. Hạt sen nhỏ, có màu trắng, vừa có thể làm một món ăn dân giã, vừa là một vị thuốc chữa chứng bệnh mất ngủ, suy nhược thần kinh. Tâm sen màu xanh, nằm giữa hạt sen, thường được dùng để ướp trà, tạo nên hương vị rất đặc biệt. Còn ngó sen không những ăn ngon miệng mà còn có tác dụng chữa các bệnh về gan. Vào những dịp lễ tết, mứt sen và trà sen lại là một bộ đôi không thể thiếu trên bàn tiếp khách của nhiều gia đình. Lá sen dùng để bọc cốm một món ăn yêu thích của nhiều người. Không chỉ có công dụng trong đời sống thường ngày, sen còn mang ý nghĩa, vai trò quan trọng trong văn hoá tinh thần của người Việt. Ở nước ta, sen được xếp vào bộ tứ quý: lan, sen, cúc, mai và đứng vào hàng “tứ quân tử” cùng: tùng, cúc, trúc. Sen chính là một biểu tượng đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam.
Sen như vậy đấy, giản dị mà thanh cao, nguyên sơ mà cao quý. Tôi tin rằng dù mai sau mọi vật có đổi thay như thế nào chăng nữa, sen vẫn giữ được những vẻ đẹp thuần khiết, toả hương thơm ngát giữa cuộc đời…
Thuyết minh về loài hoa mai
Dàn ý thuyết minh hoa mai
I. Mở bài
– Mở bài giới thiệu hoa mai: Miền Bắc có hoa đào thì miền Nam có hoa mai, mỗi loại hoa có những vẻ đẹp riêng mà không có gì có thể so sánh.
II. Thân bài
1. Nguồn gốc cây hoa mai, các loại hoa mai
– Mai vàng: cuống dài treo lơ lửng mọc trên cành, cánh hoa mỏng, màu vàng.
– Mai tứ quý: mai nở hoa quanh năm.
– Mai trắng: hoa mai mới nở màu hồng nhạt, khi mở hoa có mùi thơm.
– Mai ghép: ghép từ nhiều loại khác nhau.
2. Cách chăm sóc
– Cây mai là loại cây ưa ánh nắng, đất khi trồng luôn ẩm.
– Từ mười lăm tháng chạp người trồng phải tuốt lá cho mai, chăm bón và tưới nước để hoa mai nở đúng dịp tết nguyên đán.
– Hoa mai ý nghĩa trong ngày tết.
– Các nhà vườn trong dịp tết đều bán hoa mai làm đẹp cho những ngày tết.
– Hoa mai chơi trong nhà vừa làm đẹp vừa mang lại may mắn cả năm.
III. Kết bài
– Hoa mai nở là hình ảnh đẹp trong những ngày tết nguyên đán. Hoa mai tô điểm thêm sắc đẹp trong ngày tết đồng thời mang đến một mùa xuân an lành, may mắn.
Thuyết minh hoa mai – Mẫu 1
Mỗi dịp xuân về, ngàn hoa lại khoe sắc. Trong muôn ngàn loài hoa rực rỡ sắc hương ấy có một loài hoa rất đỗi quen thuộc với người Việt Nam: hoa mai vàng.
Mai vàng thuộc họ hàng mai, vốn là một loài cây hoang dã, mọc nơi núi rừng với dáng vẻ tự nhiên mà quyến rũ. Trải qua thời gian cùng với nhu cầu thưởng ngoạn, trao gửi tâm linh, con người đã phát hiện, thuần dưỡng và xem mai như một người bạn thân thiết, tao nhã.
Mai có dáng vẻ thanh cao. Thân cây mềm mại, lá xanh biếc, dịu dàng, hoa tươi, rực rỡ. Mai thường trút lá vào mùa đông và ra hoa vào mùa xuân. Hoa nở thành từng chùm, có cuốn dài treo lơ lửng trên cành, thoảng mùi thơm e ấp, kín đáo. Mỗi nụ hoa thường có năm cánh. Cá biệt có hoa tới những chín, mười cánh. Dân gian vẫn tin rằng năm mới nhà nào có cành mai như vậy là dấu hiệu của điềm lành, của một năm thịnh vượng, an khang.
Mai thuộc loại dễ trồng và cũng dễ chăm sóc. Người ta thường trồng mai bằng cách chọn những hạt mai nhín mẩy, phơi khô rồi đem gieo vào đất ẩm, có thể gieo trong chậu hoặc ngoài vườn. Nó ưa đất ẩm và ánh sáng nhưng không chịu được úng. Vì vậy cần trồng cây mai nơi cao ráo và phải thường xuyên tưới nước cho cây. Nếu trồng trong chậu thì cần chú ý bón phân và thay đất hàng năm. Nếu chăm sóc tốt thì khoảng 5 – 7 năm mai có thể cho hoa. Để có một chậu hoa đẹp thường chú ý cắt nhánh, uốn cành, tạo thế để có được những chậu mai có hình dạng độc đáo, mang ý nghĩa sâu sắc, đậm chất triết lí Á Đông. Để mai ra hoa đúng vào ba ngày Tết, người trồng mai thường phải chú ý trút lá và canh thời tiết. Năm nào thời tiết nắng ấm thì trút lá trước Tết khoảng hai mươi lăm ngày. Năm nào rét đậm thì phải trút lá sớm hơn.
Từ lâu cây mai đã đi vào đời sống tinh thần của người Việt Nam. Tương truyền rằng chúa Nguyễn Hoàng lúc di dân vào miền Nam lòng vẫn không nguôi nỗi nhớ thương cành đào xứ Bắc nên mỗi độ xuân về lại dùng cành mai thay thế. Có lẽ thú chơi mai ngày Tết của người Việt ra đời từ đó.Đối với người Việt Nam, nhất là người miền Trung và miền Nam, mai thường là một thứ hoa thường không thể thiếu trong ngày Tết. Ba ngày xuân, ai cũng muốn có một cành mai đẹp trong nhà, vừa để tô điểm sắc xuân, vừa để cầu mong những điều tốt đẹp. Cùng với hoa đào miền Bắc, hoa mai trở thành hiện thân của mùa xuân phương Nam. mai, trúc, cúc, tùng là biểu tượng của bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du đã viết: “Nghêu ngao vui thú yên hà. Mai là bạn cũ, hạc là người quen”. Mai là biểu tượng của người quân tử, là bạn tâm giao của những người thanh lịch, tao nhã.
Mai là một cây quý của người Việt Nam. Hiểu biết về cây mai sẽ giúp chúng ta khám phá ra bao điều thú vị để từ đó càng thêm yêu quý, nâng niu trân trọng và biết cách làm tôn vinh giá trị của mai, góp phần làm cho ngàn hoa của xứ sở luôn rực rỡ sắc hương.
Thuyết minh hoa mai – Mẫu 2
Người Việt nam vốn rất yêu thích hoa, trong các loài hoa thì hoa đào và hoa mai được nhiều người yêu thích trong dịp Tết đến xuân về. Cũng như hoa đào, hoa mai đã đi sâu vào đời sống tâm hồn của con người Việt Nam như một phần máu thịt.
Nếu như hoa đào gắn bó với người miền Bắc thì hoa mai lại gắn bó với người miền Nam. Mai có khắp mọi nơi từ Huế đến mũi Cà Mau. Hoa mai thuộc dạng dễ tính dù đất cát khô cằn hay đất đồi sỏi đá mai vẫn sinh trưởng bình thường.
Mai có hai loại là mai tứ thời và mai Tết. Mai tứ thời cho hoa suốt bốn mùa, cái tên tứ thời có lẽ vì lý do đó. Ngoài màu vàng đặc trưng thỉnh thoảng hoa mai điểm thêm vài bông màu đỏ cũng khá dễ thương. Mai Tết cả năm cho hoa đúng vào dịp Tết, hoa nở rực rỡ cả cây, cũng vì thế mà nhiều người bắt đầu chơi mai khi tết sắp về. Thông thường mai được trồng trong chậu để dễ dàng di chuyển đến vị trí cần thiết, nhưng có nhiều gia đình trồng mai trước cửa nhà và cho hoa quanh năm.
Để có mai nở vào đúng dịp Tết người chăm sóc cần phải có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề để nghiên cứu và giúp mai nở đúng dịp, lúc mai nở xong chừng vài tháng, người chăm sóc bắt đầu phải bón thúc cho mai, thứ phân bón hợp với mai là khô dầu và phân bò khô, trước Tết độ ba bốn tháng phải bón thêm một lần như thế nữa để hoa nở to và thắm hơn. Vào những ngày rằm tháng chạp (trước Tết nửa tháng), người chơi mai đều chảy hết tất cả lá trên thân cây mai và bấm hết đọt để giúp mai rực rỡ hơn khi nở rộ, với những vùng có thời tiết lạnh thì phải trảy lá trước một tháng để cây nở hoa đúng dịp. Mai không nở một lúc mà từ từ, ngày đầu thì chỉ một vài nụ, ngày sau tăng gấp đôi, rộ nhất là ngày thứ ba, tư, năm sau đó ít dần nhưng cũng kéo dài mỗi đợt phải đến nửa tháng. Đối với những cây mai khỏe thì người chơi mai cho cây nở đến hai đợt, sau đợt hoa đầu tiên cây nghỉ lấy sức và khoảng mười hôm sau đó mai bắt đầu tiếp tục đợt thứ hai, đợt này không nhiều nụ và không thắm như đóa hoa đầu tiên nhưng cũng đủ cho lòng người say đắm. Sắc mai đương nhiên là màu vàng rồi, người chuộng mai cũng vì thứ màu thanh cao, quý phái ấy. Thế nhưng chỉ một màu vàng ấy thôi cũng có rất nhiều loại khác nhau: vàng tươi, vàng nhạt, vàng gạch, vàng thắm, vàng ong… Hương của mai rất dịu và thanh, chỉ có những người tinh tế mới tận hưởng hết hương hoa thanh khiết ấy. Vì thế mà Cao Bá Quát – người đã từng dọc ngang tung hoành dám đứng lên chống lại triều đình phong kiến, thế nhưng lại cúi đầu trước cây mai: Nhất sinh đê thủ bái mai hoa (Cả đời ta chỉ cúi lạy trước hoa mai – ở đây hoa mai tượng trưng cho cái đẹp).
Những ngày Tết người ta thường chơi mai trong nhà để cầu may cho cả năm. Chỗ để mai bao giờ cũng là nơi khang trang nhất của phòng khách, để mọi người có thể chiêm ngưỡng một cách đẹp nhất. Những người thích chơi mai thì dù có đắt đến đâu, ngày Tết bằng mọi giá phải có được cây mai trong nhà mới thành Tết. Một số người còn cho rằng dựa vào cây mai nở hoa trong ngày Tết, có thể dự đoán được sự may mắn của gia chủ trong năm đó.
Hoa mai thường là năm cánh, thế nhưng bằng phương pháp kĩ thuật hiện đại ngươi ta có thể cho hoa nở từ năm đến mười bảy, mười tám cánh. Ngoài hai màu vàng và đỏ người ta còn có thể lai ghép thành màu trắng, cùng một cây mai nhưng có đủ ba màu. Nhưng người chơi mai truyền thống vẫn đều thích màu vàng.
Ngày Tết cả nhà quây quần, đoàn tụ cùng nhau ăn mứt, bánh bên gốc cây mai nở rổ thì có gì đẹp hơn, đầm ấm và hạnh phúc hơn.
Thuyết minh hoa mai – Mẫu 3
Đã từ xưa, mỗi khi mùa xuân tươi trẻ về thăm đất Việt, không nhà nào có thể quên lãng bóng dáng một nhành mai, nhất là ở miền Nam. Bởi đó là sản vật tinh thần, là biểu tượng của sự may mắn hòa cùng niềm hạnh phúc sum vầy trong năm mới. Và dường như, kể từ đó, hoa mai đã trở thành linh hồn linh thiêng nhất của mùa xuân trong lòng người Việt.
Nếu ghé thăm miền nam trong độ xuân về, không khó khăn gì để chiêm ngưỡng vẻ đẹp loài hoa này. Từ mọi nhà, đường phố đến các khu chợ đông đúc, đâu đâu cũng rực lên ánh vàng của hoa mai. Thật ra, những loại hoa ta có thể thấy hiện giờ đều bắt nguồn từ loài hoa dại trong rừng, nhờ bác tiều phu tìm thấy và mang về mới được nhân giống ra nhiều như vậy.
Cũng không rõ dáng mai lúc trước ra sao, thế nào; nhưng chắc cùng thân gỗ, cao chừng 1,5 đến 2 mét như ngày nay. Thân cây lúc nào cũng màu nâu xám chia làm nhiều nhánh. Với cái thân này, nhiều nghệ nhân đã tạo ra những kiểu dáng lạ mắt như hình con rồng, phụng, lân.. với các tán tròn xòe rộng như bàn tay ấp ủ hơi thở nàng xuân.
Họ hàng nhà mai rất đông đúc đủ chủng loại và ai cũng ưa đất ẩm vừa nên thường không thấy chúng mọc ở nơi giá lạnh. Trong đó, mai vàng là được chuộng và dễ thấy nhất ở mọi nhà. Lá mai màu xanh mơn mởn có các vân lá nhỏ màu xanh đậm. Trước tết, chừng mười lăm tháng Chạp, người ta tuốt lá mai để nhường chỗ cho các chồi non. Trong thời điểm này, cây mai phải được tưới nước đều đặn và vừa phải để nó phát triển tươi tốt. Một thời gian sau, trên các cành mai hé lộ những búp non nép mình bên các cánh lộc tim tím, rồi lại bung ra năm cánh vàng rực chào đón mùa xuân.
Hoa mai không khi nào mọc riêng lẻ mà kết thành từng chùm quấn quýt nhau. Hoa mai có chừng năm đến bảy cánh, mềm và mỏng manh như cánh phượng xòe chồng lên bao quanh nhụy vàng. Mỗi gió thổi, cánh mai rời nhụy nhè nhẹ rơi xuống đất trông rất đẹp. Hương thơm của hoa mai rất đặc biệt, thoang thoảng và kín đáo nhưng lại rất dễ xoa dịu lòng người.
Nếu mai vàng chỉ nở vào dịp xuân thì mai tứ quý lại có mặt tại bốn mùa trong năm. Đó cũng là nguồn gốc của tên loại hoa này. Tuy nhiên, mai tứ quý lại không được lòng như mai vàng nên ít gặp. Cánh hoa vàng thẫm nở vào nửa năm. Khi cánh hoa rụng hết, để lại những đài hoa xanh thẫm và dần dần trở nên đỏ sậm như năm cánh sen. Đồng thời, nhụy hoa khô lại và giữa bông xuất hiện các hạt nhỏ màu xanh. Phát triển dần dần, hạt sẽ to hơn, tựa hạt đậu và chuyển sang màu tím đen. Khi rơi xuống đất, gặp điều kiện thuận lợi nó sẽ phát triển thành cây con. Đây là loài hoa tượng trưng cho sự thịnh vượng cả năm.
Một loại thứ ba của họ hàng nhà mai nữa chính là bạch mai hay còn gọi là mai chiếu thủy. Chỉ từ tên mai ta có thể nhận biết được màu sắc của nó… màu trắng. Khác với các loại hoa trên, mỗi hoa mai chiếu thủy mang nhiều cánh nhỏ li ti kết thành từng chùm trắng xóa quyện làn hương thoang thoảng.
Ngoài ba loại này ra, trên thị trường, hoa mai đã được nhân giống ra rất nhiều loại mới. Có những bông hoa mang đến hai mươi tư cánh nữa đấy!
Hoa mai đứng hàng đầu của tứ quý trong bộ tranh tứ bình, là sức sống mãnh liệt của mùa xuân. Đối với mọi người, mai vàng trước nhà nở rộ vào ngày mùng một tết là một điều tuyệt diệu. Năm nay chắc hẳn là năm thắng lợi, rất được nhiều may mắn, lòng tràn đầy hạnh phúc.
Đã là người Việt Nam thì ai cũng yêu quý cây mai. Không chỉ có mặt ở trước nhà mà mai còn được trưng trên bàn khách, đặt trên bàn thờ tổ tiên như một vật linh thiêng mà con cháu kính dâng ngày lễ. Ngoài ra, tại các đền, chùa, cây mai còn được điểm xuyết các màu đỏ của câu đối, lộc tài hoặc các bóng đèn chớp đủ màu. Còn ở các chợ hoa, nó lúc nào cũng nổi bật và dược bán chạy nhất mặc dù nép mình bên nhiều loài hoa đẹp khác.
Không chỉ đem lại hạnh phúc cho bản thân mà mai còn là một món quà vô cùng ý nghĩa gửi tặng bạn bè người thân của mình. Ngày xuân sum họp, con cháu thường không quên mang đến các chậu mai, nhành mai vàng rực biếu tặng ông bà cùng các lời chúc phúc đầu năm để làm ấm cúng cả một mái nhà hẻo lánh. Và cũng từ một nhành mai mà bạn bè sẽ trở nên thân thiết với nhau hơn, xoa dịu niềm xích mích nếu có trước kia.
Bên cạnh giá trị tinh thần, loài hoa này còn đem đến lợi nhuận cao cho các nhà buôn bán. Tại chợ đêm, một nhành mai cũng khoảng từ 50.000 đồng trở lên tùy theo vẻ đẹp của nó. Còn một cây mai cũng trên 300.000 đồng, có cây cả triệu, cũng có cây trăm triệu.
Sở dĩ có những cây mai mắc đến như vậy cũng nhờ có gốc mai. Thông thường những người chơi mai chú trọng nhất là phần này. Gốc mai càng to, càng đẹp, càng lạ thì giá tiền càng đắt đỏ. Chỉ riêng gốc thôi mà cây mai có giá trị cả mấy triệu đồng. Rồi cũng một gốc mai nhưng lại đến một tỉ vẫn không mua được.
Một chi tiết làm nên vẻ đẹp thanh khiết của hoa mai mà dường như ai cũng quên lãng nữa. Chính hoa mai đã tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao của người phụ nữ Vân, Kiều mà Nguyễn Du từng ca ngợi: “Mai cốt cách tuyết tinh thần”.
Do mai quan trọng đối với người miền nam đến như vậy nên nhà nào cũng chăm sóc nó thật tốt. Hằng ngày tưới nước, bón phân cho cây đã trở thành thói quen không thể bỏ của người miền nam. Chẳng những thế, cũng cần chú trọng đến ánh sáng, độ ẩm của đất để mai phát triển khỏe mạnh, trổ rực vàng cả thân vào dịp xuân, rước tài lộc vào nhà mình.
Hoa mai không những mang vẻ đẹp thanh khiết mà còn là một phần của mùa xuân. Vì thế, ta càng phải quý trọng mai hơn nữa để nó luôn đem lại hạnh phúc cho mọi nhà, cho chúng ta. Hãy nhớ, dù ngày tết có tưng bừng thế nào nhưng không có hoa mai, tết vẫn chưa đến, xuân vẫn chưa về.
Thuyết minh hoa mai – Mẫu 4
Lâu lắm rồi mai chỉ có một loại mọc hoang dã nơi núi rừng với dáng vẻ hoang sơ hết sức tự nhiên và độc đáo.
Dần dần cùng với sự thẩm định của thời gian cũng như đòi hỏi thưởng ngoạn và gửi gắm tâm linh của con người, mai được người đời phát hiện và trân trọng nâng niu như những người bạn thân thiết quý mến. Mai có rất nhiều loại khác nhau: hồng mai, bạch mai, cúc mai, huyết mai… nhưng phổ biến nhất vẫn là mai vàng và bạch mai. Mai dễ trồng và mọc khắp nơi. Đặc biệt có một loài mai gọi là mai tứ quý, cành lá xum xuê, cành lá xanh biếc và nở hoa bốn mùa. Loại này cũng dễ trồng và phát triển khá nhanh.
Với dáng vẻ thật đơn sơ và mỏng mảnh, mai được người đời xếp trong những loại cây cảnh quý mà xưa nay ta vẫn thường thấy trong mảnh vườn bé nhỏ của mỗi gia đình. Người ta dễ trồng mai, chơi mai bất kể sang hèn, trí thức hay thường dân. Hơn 200 năm trước, đại thi hào Nguyễn Du đã ví mai như một người bạn: “Nghêu ngao vui thú yên hà/Mai là bạn cũ, hạc là người quen”. Không những tết, thậm chí ngày thường ta vẫn thấy đâu đó nhưng gia đình đưa mai vào trong chậu đặt trang trọng giữa nhà để hoa nở trong suốt mùa xuân.
Bác tôi là một người chơi cây cảnh đã gần bốn mươi năm nay. Tết năm nào đến nhà, dù đói dù no, dù vui dù buồn cũng thấy bác tôi đặt trang trọng một chậu mai trắng đặt giữa nền nhà. Bác bảo nay là sở thích của ông tôi truyền lại. Ông yêu cái vẻ đẹp giản dị mà dịu dàng, ấm áp giữa ngày xuân của mai.
“Mai là bạn cũ”… Không những thế mai còn được người đời coi là biểu tượng của tính trung thực, lịch lãm, cao cả và thuần khiết cùng với tùng, cúc, trúc. Người đời thường nói, chỉ trong hoàn cảnh sống chết mới biết rõ đâu là bạn thực, đâu là bạn giả. Tùng – cúc – trúc – mai cũng vậy, dù sống trong hoàn cảnh nào, dù đạn bom mưa gió bão bùng vẫn ngời ngời một sức sống âm thầm, dai dẳng. Trong khi đó ta thấy vạn vật xung quanh như vẫn đang chìm sâu trong giấc ngủ đông dài rét mướt, còn tùng, trúc, mai đã vội vàng dậy như chim én gọi xuân về. Một mùa xuân non tơ đầy ánh nắng. Mai rất dễ trồng nhưng cũng thật khó với những người không chuyên chơi mai. Mai sẽ chết nếu như bị úng nước hoặc quá rợp. Nếu đủ nắng mai sẽ nở đều, cánh mập hơn và dày hơn. Đối với những người chuyên chơi mai, loại mai nở dày, đúng độ xuân về họ thường giữ lại trong vườn nhà chứ không chặt vào nhà, cần thì mua thêm. Sở dĩ như vậy là vì ở một số địa phương họ coi mai như một người con gái trong trắng tinh khiết của mùa xuân, biểu tượng của sự may mắn hạnh phúc trong gia đình và vì vậy không ai đang tâm chặt mà chỉ mua thêm về nhà mà thôi.
Trong lịch sử đã không hiếm những danh nhân say mai, trồng mai để ngắm và làm bạn suốt đời. Mai nhỏ nhoi mà tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt. Nó thật xứng đáng như một người con gái nết na, dịu hiền. Thời loạn lạc, mai còn đóng vai trò như một lời khuyên chân thành với người đời hãy sống hết mình, vị tha, thanh bạch không màng đến lợi danh.
Trong mắt bạn, trong mắt tôi, đông đang tàn cho một mùa xuân đâm chồi nảy lộc. Xuân đang đến cùng với những nhành mai đang nở rộ vươn lên từ đất mẹ với tất cả những gì là trong trắng, hồn nhiên, duyên dáng… cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau…
Thuyết minh về loài hoa hồng
Dàn ý thuyết minh hoa hồng
I. Mở bài
– Giới thiệu về hoa hồng.
Ví dụ: Em rất thích hoa, trong tất cả các loài hoa em thích nhất là hoa hồng. Hoa hồng rất đẹp và mang một ý nghĩa hết sức đặc biệt.
II. Thân bài
1. Khái quát về hoa hồng
– Là một loài hoa leo hoặc là loài hoa trồng chậu.
– Hoa của hồng rất thơm.
– Hoa hồng là loài hoa rất có ý nghĩa trong đời sống.
2. Chi tiết về hoa hồng
– Cấu tạo của hoa hồng:
- Thân cây hoa hồng nhỏ, có nhiều gai.
- Lá hoa hồng màu xanh đậm, có nhiều gân.
- Hoa hồng màu hồng, màu đỏ, màu trắng…
- Hoa hồng có nhiều cánh, mỗi cánh hoa hồng nhỏ và đẹp.
- Đài hoa hồng màu xanh.
– Đặc điểm của hoa hồng:
- Hoa hồng thường mọc thành bụi hoặc leo.
- Hoa hồng có ý nghĩa vô cùng đặc biệt.
- Hoa hồng rất đẹp.
– Ý nghĩa của hoa hồng:
- Là biểu hiện cho tình yêu.
- Là biểu hiện cho những tình cảm thiêng liêng : tình mẹ con, tình cha con, tình yêu trai gái…
- Là ý nghĩa, biểu tượng cho những vật có giá trị.
- Hoa hồng trong nghệ thuật.
III. Kết bài
– Nêu cảm nghĩ của em về hoa hồng.
(Ví dụ: Hoa hồng là một loài hoa rất có ý nghĩa và xinh đẹp. chúng ta nên phát huy loài hoa xinh đẹp này)
Thuyết minh hoa hồng – Mẫu 1
Không biết tự bao giờ, cây hoa hồng đã trở thành một loài hoa tôn quý, vẻ đẹp của nó không thanh cao như hoa mai, không sặc sỡ như hoa ngũ sắc. Nhưng nó mang một vẻ đẹp mềm mại mà nhẹ nhàng, êm đềm như tình cảm của con người.
Cây hoa hồng có tên khoa học là Rosa, thuộc họ hoa hồng, có xuất xứ ôn đới và á nhiệt đới, vùng bắc bán cầu. Theo các nhà khoa học, thực vật học thì hoa hồng đã xuất hiện trên trái đất khoảng vài chục triệu năm, còn cây hoa hồng được con người thuần chủng đưa vào trồng trọt cũng đã cách nay khoảng vài ngàn năm. Người ta khẳng định hoa hồng đầu tiên ở Trung Quốc và Tiểu Á, sau đó mới du nhập vào châu Âu, nhưng người châu Âu lại có công lai tạo ra giống hoa hồng hiện đại ngày nay. Trên thế giới, mỗi khi nhắc đến đất nước Bungari, người ta lại nhắc đến cây hoa hồng. Nếu như nói Nhật Bản là xứ sở của hoa anh đào thì Bungari lại là xứ sở của hoa hồng. Cây hoa hồng được trồng ở hầu khắp cả nước ta, đặc biệt là Đà Lạt.
Hoa Hồng thuộc họ rễ chùm, là loại cây thân gỗ bụi, thân và cành có gai nhọn, đó là một trong những nét đặc trưng của cây hoa hồng. Lá hoa hình bầu dục, rìa lá có răng cưa, gân lá hình mạng. Cánh hoa còn tùy thuộc vào từng loại hoa hồng. Hồng nhung Đà Lạt có thể xem là loại hồng đẹp nhất nước ta, cánh hoa mềm mại, xếp chồng xen kẽ lên nhau, gần như hình trái tim mang một màu đỏ tươi thắm, nó như hội tụ tất cả những tinh túy của đất trời, của cuộc sống, của thế giới các loài hoa. Hoa hồng có ba loại chính, đó là: hoa hồng dại, hoa hồng cổ điển và hoa hồng hiện đại.
Hồng dại thường được thấy ở những nơi hoang dã, mọc ngoằn nghèo nên còn gọi là hồng leo. Hồng cổ điển là những giống hồng được thuần chủng, lai tạo từ trước năm 1867. Còn hồng hiện đại là những giống hồng được lai tạo từ sau năm 1867. Ở nước ta, hoa hồng còn được phân loại theo đặc tính của cây như: hồng cứng, hồng thạch, hồng quế, hồng cánh sen, hồng vàng…
Cây hoa hồng như một món quà thiên nhiên đã ban tặng cho con người chúng ta, nó làm phong phú thêm đời sống vật chất và tinh thần của con người. Người ta nói, hoa hồng tượng trưng cho tình yêu: tình yêu gia đình, tình mẫu tử, tình thầy trò, tình yêu đôi lứa… Cây hoa hồng như mang trong nó tâm linh của loài người, mỗi cánh hoa như ấp ủ một nỗi niềm, một tình cảm sâu lắng nào đó của con người. Trong ngày lễ “vu lan”, vào chùa chúng ta thường thấy những bông hồng cài trên ngực áo thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng, rồi đến ngày Nhà giáo Việt Nam, từng lớp học trò lần lượt mang những cánh hồng đỏ thắm dâng tặng lên thầy, cô kính yêu như thể hiện lòng biết ơn. Ngày lễ Valentine, ngày 8/3… chúng ta cũng không quên những bông hồng xinh xắn tặng cho các mẹ, các chị và đặc biệt là người yêu mình. Cứ như thế, cây hoa hồng đi vào thơ ca một cách tự nhiên không biết từ lúc nào, chúng ta thường nghe câu nói dân gian Hoa đẹp là hoa có gai, câu nói đó ám chỉ cây hoa hồng, rồi ta cũng thường nghe bài hát Bông hồng cài áo, đọc tác phẩm Hoa hồng Bungari…
Không những phục vụ cho đời sống tinh thần, hoa hồng được phục vụ cho đời sống vật chất của con người. Một phòng họp, một phòng khách, một quán trà… có thêm một cành hồng trên bàn cùng đủ làm cho không gian thêm trang trọng và lãng mạn. Có thể nói rằng hoa hồng có tính trang trí cao. Hương hoa hồng không thơm ngát như hoa lài mà ngược lại rất nhẹ nhàng, dễ chịu. Vì vậy, hoa hồng được nhiều nước chọn nguyên liệu để làm nước hoa, mỹ phẩm, góp phần tôn lên vẻ đẹp của con người. Hoa hồng cũng được trồng để kinh doanh, thu lợi nhuận.
Nhìn chung, hoa hồng ở Việt Nam thích nghi nhiệt độ trung bình từ 18 – 25 độ ẩm tối đa 85%, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1000 – 2000mm, độ pH từ 5,6 – 6,5. Trong mùa hè, do nhiệt độ lên cao, độ ẩm lớn cây hoa hồng có nguy cơ xuất hiện các loại bệnh như gỉ sắt, phấn trắng, rệp. Nếu cây bị nấm phấn trắng trong vụ xuân thì dùng đồng 1% để tưới, đồng thời phải cắt bỏ những cành bị bệnh nặng và đốt đi. Đất dùng để trồng hoa hồng phải bằng phẳng, tơi xốp. Hoa hồng thường được nhân giống theo ba cách: giâm cành, chiết cành hoặc ghép cành.
Như thế, cây hoa hồng là loài hoa tượng trưng cho sắc đẹp và tâm tình, nó không thể thiếu trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của con người. Vì vậy, bảo vệ và phát triển giống hoa hồng là điều cần thiết mà con người cần làm hiện nay.
Thuyết minh hoa hồng – Mẫu 2
Mỗi khi nhắc đến thế giới loài hoa, thật khó có thể quên được loài hoa hồng kiêu sa, kiều diễm – loài hoa vốn được mệnh danh là “nữ hoàng của các loài hoa”. Đi sâu tìm hiểu về loài hoa này, chúng ta thấy có thật nhiều điều thú vị!
Hoa hồng vốn có nguồn gốc từ xứ sở Ba Tư xa xôi. Từ đất nước Ả-rập thần bí này, hoa hồng đến với khắp các quốc gia trên thế giới. Cho đến nay, có lẽ chưa có mảnh đất nào có bóng con người mà hoa hồng chưa đặt chân đến. Nhưng nổi tiếng nhất, có thể nhắc đến hoa hồng của những đất nước Bun-ga-ri. Một nhà thơ Việt nam đã từng thốt lên: “Hoa hồng Bun-ga-ri. Ôi! Loài hoa diệu kỳ!”
Có lẽ chính vẻ đẹp và những ý nghĩa thiêng liêng của hoa hồng đã tạo nên sức hút diệu kỳ thu hút và chinh phục hàng triệu trái tim con người.
Hoa hồng thuộc giống thân cỏ và có rất nhiều loài. Có loài thân leo, có loài thân thẳng. Có loài không gai, có loài có gai. Tuy nhiên, phổ biến tiếp từ thân cây. Lá hoa thường có ba nhánh hình bầu dục, viền có răng cưa. Ngoài ra, trên thân cây thường có gai sắc, nhọn. Tuy nhiên, cũng có loài được lai ghép nên thân trơn nhẵn khiến người ôm hoa không sợ bị gai đâm. Nụ hoa được đặt trang trọng trên đỉnh của thân cây. Dưới nụ hoa xanh tươi còn có đài hoa nâng đỡ. Đủ ngày đủ tháng, nụ hoa bung nở hàng chục cánh hoa mềm mịn đan xếp vào nhau kiêu sa, quyến rũ. Cánh hoa hồng cũng có hình bầu dục, to hơn xu đồng tiền, cánh hoa rất mịn (“mịn như nhung”, nên có loài hoa hồng tên gọi là hồng nhung) và êm nhẹ. Đặc biệt, cánh hoa hồng thường có rất nhiều màu: màu đỏ, màu hồng, màu vàng, màu cam… Với mỗi màu lại có những sắc độ khác nhau: đỏ tươi, huyết dụ, đỏ nhung…
Hoa có rất nhiều tác dụng trong đời sống hàng ngày. Điều dễ thấy là hoa hồng được dùng để làm cảnh trong nhiều gia đình. Chúng ta trồng hoa hồng trong vườn nhà, chúng ta cắm hoa hồng trong lọ, chúng ta tặng nhau những đóa hoa hồng… Sở dĩ hoa hồng thường được trao tặng nhau một cách trang trọng như thế bởi hoa hồng có nhiều ý nghĩa. Hoa hồng đỏ tượng trưng cho tình yêu cháy bỏng, nồng nàn. Hoa hồng vàng thể hiện tình bạn cao quý, chân thành. Hoa hồng cam thể hiện sự thành đạt, hiển vinh… Số lượng hoa hồng trong mỗi đoá cũng mang những ý nghĩa nhất định thể hiện suy nghĩ của người tặng, đặc biệt là đối với những đoá hồng đỏ. Không chỉ dùng để làm đẹp, hoa hồng còn rất nhiều tác dụng khác. Từ cánh hoa hồng, nhiều quốc gia đã chiết xuất tinh dầu tạo nên những nền công nghiệp nước hoa khổng lồ như Bun-ga-ri, Pháp,… Cũng từ hoa hồng, dân gian ta chế ra những bài thuốc chữa nhiều bệnh thông thường: cảm, đau bụng,…
Có nhiều tác dụng như vậy nhưng hoa hồng không hề khó tính chút nào. Hoa có thể nở bốn mùa trong năm để dâng hương sắc cho cuộc đời đầy ý nghĩa này. Ở nước ta, hoa hồng đẹp nổi tiếng nhất là hoa hồng của cao nguyên Đà Lạt. Từ Đà Lạt, hoa hồng chẳng những đi khắp mọi nẻo đường đất nước mà hoa còn đến với bạn bè khắp năm châu.
Biết về hoa hồng như vậy, mỗi khi cầm bông hồng trên tay, chúng ta hãy biết trân trọng và yêu quý bông hồng bạn nhé.
Thuyết minh hoa hồng – Mẫu 3
Mỗi loài hoa đều mang trong mình những vẻ đẹp và ý nghĩa khác nhau. Nếu như hoa đào đem đến không khí Tết an khang, hạnh phúc. Hoa đồng tiền tượng trưng cho sự may mắn. Thì cũng không thể kể đến loài hoa xinh đẹp và kiều diễm như hoa hồng.
Cây hoa hồng có xuất xứ ôn đới và á nhiệt đới, vùng bắc bán cầu. Theo các nhà khoa học, thực vật học thì hoa hồng đã xuất hiện trên trái đất khoảng vài chục triệu năm, còn cây hoa hồng được con người thuần chủng đưa vào trồng trọt cũng đã cách nay khoảng vài ngàn năm. Phần lớn có nguồn gốc bản địa châu Á, số ít còn lại có nguồn gốc bản địa châu Âu, Bắc Mỹ, và Tây Bắc Phi. Các loài bản địa, giống cây trồng và cây lai ghép đều được trồng làm cảnh và lấy hương thơm. Ngày nay, cây hoa hồng đã được nhân rộng và trở thành loài hoa phổ biến trên khắp cả nước.
Hoa hồng thuộc học rễ chùm, là loại cây thân gỗ bụi, thân và cành có gai nhọn, đó là một trong những nét đặc trưng của cây hoa hồng. Đây là các cây bụi mọc đứng hoặc mọc leo, thân và cành có gai. Thân cây mảnh chỉ bằng chiếc đũa, mang một xanh sẫm. Khắp thân nhỏ ấy là những chiếc gai nhọn bao phủ để bảo vệ cây khỏi kẻ thù. Lá kép hình bầu dục, lá chét khía răng, có lá kèm. Hoa thơm, màu sắc đa dạng: hồng, trắng, vàng hay đỏ… Hoa thường có nhiều cánh, từng cánh hoa chụm vào nhau duyên dáng do nhị đực biến thành. Đế hoa hình chén. Quả bế, tụ nhau trong đế hoa tôn dày lên thành quả. Cây hồng đang độ trổ hoa, ở đầu mỗi cành có nhiều nụ lớn bằng đốt ngón tay, được bao bọc trong một lớp đài hoa màu xanh nhạt. Những nụ chị, nụ em chi chít, âm thầm chuẩn bị đến ngày khoe sắc, khoe hương. Hoa hồng khi hái về nhà có thể để được vài ngày với mùi hương dịu nhẹ lan tỏa khắp không gian.
Họ hàng nhà hồng rất đông, có nhiều loại có hoa hồng nhung màu đỏ thắm, cánh mịn, có loại hồng phấn. Ngày nay thì hoa hồng có nhiều màu khác nhau như màu tím, vàng, xanh… Có rất nhiều những cánh đồng hoa hồng ở Châu Âu. Đến nơi đấy, tận hưởng vẻ đẹp của hoa hồng thì thật thích mắt. Nếu những bông hồng ta thường phát triển theo khóm, một khóm có thể có rất nhiều bông hoa, nhưng những bông hồng được bán trên thị trường ngày nay thì mọc độc lập trên một thân cây, thân thẳng tắp, mỗi cây chỉ phát triển được một bông hoa. Do đó mà bông hoa hồng này thường to hơn, màu sắc đẹp hơn, phù hợp với nhu cầu cho người sử dụng. Trên thị trường thì tùy thuộc vào từng loại hoa hồng với những giá cả theo mức phù hợp.
Hoa hồng ngày nay càng trở nên thân thuộc và gần gũi với mỗi con người Việt. Ở Việt Nam thì trồng chủ yếu là ở Đà Lạt với loài hoa đẹp. Hoa hồng còn được mệnh danh là “nữ hoàng của các loài hoa”. Hoa hồng có rất tác dụng. Hoa hồng được biết đến là loài hoa tượng trưng cho tình yêu, nhiều người thường chọn hoa hồng để gửi gắm những thông điệp yêu thương đến những người thân yêu của mình. Hoa hồng còn được dùng để trang trí phòng, để làm hoa nhân ngày sinh nhật. Ngày 20 tháng 11 hoa hồng được dùng rất nhiều trong dịp này để tri ân thầy cô. Hương thơm của hoa hồng lan tỏa khắp không gian tạo nên một mùi hương dễ chịu, sảng khoái tinh thần, tránh căng thẳng. Ngay từ thời cổ đại, hoa hồng được sử dụng là một phương pháp làm tăng hiệu ứng tích cực cho cơ thể con người, như tác động lên tâm trí và được sử dụng để làm đẹp da, người ta đã sử dụng hoa hồng làm ra nhiều loại nước hoa. Bên cạnh đó, hoa hồng không chỉ có tác dụng làm đẹp hoa hồng còn dùng làm thuốc chữa bệnh như mụn nhọt, dân gian còn dùng cánh hoa hồng hấp với đường phèn để chữa bệnh ho cho trẻ em.
Hoa hồng không biết tự bao giờ đã trở thành loài hoa gần gũi với con người chắc cũng bởi những vẻ đẹp kiêu sa và công dụng to lớn của nó. Hãy biết chăm sóc tốt cho loài cây này để nó mãi mang hương sắc cho đời, cho cuộc sống thêm tươi đẹp.
Thuyết minh hoa hồng – Mẫu 4
Hoa hồng được coi là loài hoa đẹp nhất trong các loại hoa bởi nó tượng trưng cho tình yêu mãnh liệt.
Hoa hồng như cái tên của nó – rất đẹp, nhưng cũng rất “nhọn”. Từ gốc đến ngọn được bao trùm bởi gai nhọn. Lá hoa hồng tròn trịa được viền răng cưa xung quanh. Nụ hồng chúm chím thường được như đôi môi đỏ hồng của các cô thiếu nữ. Dĩ nhiên, Hoa hồng còn đẹp bởi mùi hương quyến rũ, mê hoặc. Hương hoa hồng vô cùng dễ chịu, nồng nàn, lan tỏa…
Hoa hồng đỏ được xem là hoa thánh dành riêng cho thần Vệ nữ. Truyền thuyết về hoa hồng gắn liền với truyền thuyết về tình yêu của thần thánh. Hoa hồng không chỉ là nữ hoàng các loài hoa bởi vẻ đẹp kiêu sa và hương thơm quyến rũ, mà còn là một dược phẩm quý của thiên nhiên với những công dụng làm đẹp. Cách gọi “Hoa hồng có gai” vinh dự được gán cho những người phụ nữ đẹp.
Trong khi mỗi loài hoa đều có một câu chuyện tuyệt vời để kể, hoa hồng lại riêng biệt với vô vàn truyền thuyết và ý nghĩa. Nhiều đến độ chúng ta không thể không dành cho hoa hồng một cách đối xử ưu ái và một không gian riêng biệt với những biểu tượng phong phú của mình. Được sử dụng từ hàng trăm năm nay để truyền tải thông điệp tình yêu phi ngôn ngữ, hoa hồng là một biểu tượng của niềm tin. Cụm từ tiếng Latinh “sub rosa” – dưới hoa hồng, ám chỉ một điều đang được giữ trong bí mật.
Chưa kể tới màu sắc, vẻ đẹp độc nhất vô nhị của hoa hồng và hương thơm tinh tế của nó khơi gợi niềm vui cho người nhận và sự ganh tỵ từ những người khác. Nếu bạn đang tìm một cách để thêm chút truyền cảm từ nỗi đam mê thầm lặng của mình, chúng ta hãy cùng xem hàng loạt những ý nghĩa được kết hợp với màu sắc của hoa hồng.
Thuyết minh về loài hoa đồng tiền
Dàn ý thuyết minh về hoa đồng tiền
I. Mở bài
– Giới thiệu về hoa đồng tiền (biểu tượng cho sự tài lộc và may mắn).
1. Nguồn gốc
– Được gọi là đồng tiền hay cúc đồng tiền, tên khoa học là Gerbera, thuộc chi của một số loài cây cảnh họ Cúc
– Có từ 30 đến 100 loài đồng tiền hoang dã được phân bổ ở Nam Mỹ, châu Phi, Madagascar và vùng nhiệt đới châu Á.
– Việt Nam hiện có khoảng 30 loài đồng tiền được trồng và sản xuất, có nguồn gốc chính từ Trung Quốc, Hà Lan, được trồng chủ yếu ở Đà Lạt.
2. Đặc điểm
– Hoa đồng tiền có cuống dài, mỗi nhánh chỉ có một bông duy nhất.
– Mỗi bông hoa gồm nhiều cánh ghép lại theo hình vòng tròn. Cánh hoa đồng tiền có hai loại: cánh hoa hình lưỡi và cánh hoa hình ống.
– Cánh hoa hình lưỡi to hơn, xếp ở phía ngoài, cánh hoa hình ống xếp ở phía trong.
– Lá hoa đồng tiền to bản, màu xanh đậm, thuôn dài như lông chim, dài chứng 15 – 20cm, rộng tầm 8 – 10cm, có xẻ rãnh nông sâu, phía sau lá có một lớp lông.
– Thân cây hình ống, xốp, dài tầm 40 – 45 cm, có phủ một lớp lông mỏng phía ngoài.
3. Phân loại
– Có nhiều cách phân loại hoa đồng tiền: phân loại theo màu sắc, phân loại theo giống.
– Cách phân loại theo giống:
- Giống Thanh tú giai nhân: nguồn gốc Hà Lan, là loại hoa kép, màu cánh sen, lá đậm, cánh hoa có bốn lớp, ba lớp ngoài, một lớp trong.
- Giống Thảo nguyên nhiệt đới: cũng có nguồn gốc từ Hà Lan, màu đỏ tươi, nhị đen, lá đậm, cây ngắn, mập mạp.
- Giống Kim hoa sơn: Có nguồn gốc từ Trung Quốc, màu vàng đỏ, nhị đen, lá đậm, phát triển trung bình.
- Giống Yên Hưng: Cũng có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhị hoa màu xanh.
– Phân loại theo màu sắc: đỏ, vàng, da cam, xanh…
4. Công dụng
– Cây có nhiều công dụng, có giá trị thẩm mỹ cao, dùng để làm cảnh, trang trí trong nhà.
– Dùng trong nghiên cứu khoa học, mô hình phát triển của các loài hoa.
– Trong đời sống hàng ngày, cánh hoa đồng tiền dùng để chữa bệnh: cánh hoa khô giúp thanh nhiệt, tiêu đờm, giảm ho.
– Về tâm linh: người ta coi hoa đồng tiền mang lại tài lộc, may mắn.
– Cách trồng và chăm sóc:
- Hoa đồng tiền ưa sáng, ưa nước, thích hợp trồng ở khí hậu mát mẻ.
- Có thể trồng hoa bằng cách gieo hạt hoặc cây giống từ các vườn ươm từ 30 – 45 ngày tuổi.
- Nên trồng cây vào lúc sáng sớm hoặc lúc chiều tối, trồng nổi để cây dễ sống và cung cấp đủ nước cho cây.
- Hoa cần tưới nước hai đến ba lần mỗi ngày, tỉa lá giúp tăng năng suất
– Kết luận chung:
- Hoa đồng tiền là loài hoa có giá trị thẩm mỹ lại vừa có giá trị kinh tế, được người Việt Nam ưa chuộng.
- Hoa còn có giá trị về mặt tinh thần: mang tài lộc vào nhà.
III. Kết bài
– Khẳng định lại giá trị của hoa đồng tiền
Thuyết minh về hoa đồng tiền – Mẫu 1
Ở Phương Tây, người ta đặt cho mỗi màu hoa, mỗi thứ hoa một ý nghĩa nhất định. Màu trắng biểu thị sự trong sạch, màu xanh nhạt chỉ sự xoa dịu đam mê, màu hoàng yến đường hoàng kiêu hãnh, màu phấn hồng êm ái ôn nhu. Còn ở Phương Đông, hoa hồng tượng trưng cho tình yêu, hoa thủy tiên tượng trưng cho sắc đẹp kiều diễm, trong trắng, hoa cúc tượng trưng cho người ẩn dật, hoa phù dung sớm nở tối tàn thường được ví với những người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng bạc mệnh; hoa lan là thứ hoa vương giả; hoa mẫu đơn là thứ hoa phú quý; hoa nhài là thứ hoa lãng mạn, chỉ nở về đêm. Còn đồng tiền, thứ hoa gắn liền với cho sự may mắn,tài lộc, luôn cố gắng vươn lên để đến được nơi tươi sáng nhất giống như con người Việt Nam.
Đồng tiền hay cúc đồng tiền (Gerbera), có tên khoa học là Gerbera jamesonii, là một chi của một số loài cây cảnh trong họ Cúc (Asteraceae). Tên gọi Gerbera được đặt theo tên nhà tự nhiên học người Đức Traugott Gerber, một người bạn của Carolus Linnaeus. Đây là một trong 10 loại hoa thương mại quan trọng nhất được trồng trên thế giới, có nguồn gốc từ Châu Á, Nam Phi và Tasmania. Đồng tiền thích hợp với khí hậu ôn đới hoặc cận nhiệt đới. Hiện nay, ở Việt Nam có khoảng hơn 30 giống hoa đồng tiền đang được trồng ngoài sản xuất, các giống này có nguồn gốc từ Hà Lan, Trung Quốc, màu sắc phong phú, đa dạng. Hoa được trồng chủ yếu ở Đà Lạt và các nơi có khí hậu mát mẻ.Cây hoa Đồng tiền thuộc loại thân thảo. Thân ngầm, không phân cành chỉ đẻ nhánh, lá và hoa phát triển từ thân, lá mọc chếch so với mặt đất một góc 15 – 45 độ, hình dáng lá thay đổi theo sinh trưởng của cây (từ hình trứng thuôn đến thuôn dài); lá dài 15 – 25cm, rộng 5 – 8cm, có hình lông chim, xẻ thuỳ nông hoặc sâu (tùy thuộc vào từng loại giống), mặt lưng lá có lớp lông nhung.
Hoa có cuống dài, là loại hoa tự đơn hình đầu và bông hoa được tạo bởi hai loại cánh hoa hình lưỡi và hình ống. Cánh hình lưỡi lớn hơn, xếp thành một vòng hoặc vài vòng phía ngoài; cánh hình ống nhỏ hơn, do sự thay đổi hình thái và màu sắc nên được gọi là mắt hoa hoặc tâm hoa. Trong quá trình hoa nở, cánh hoa hình lưỡi nở trước, cánh hoa hình ống nở sau theo thứ tự từ ngoài vào trong theo từng vòng một. Đồng tiền là cây thân thảo, dạng thân ngầm, không phân cành chỉ đẻ nhánh. Lá và hoa phát triển từ thân, lá mọc chếch so với mặt đất một góc 15 – 45 độ, hình dáng lá thay đổi theo sinh trưởng của cây (từ hình trứng thuôn đến thuôn dài); lá dài 15 – 25cm, rộng 5 – 8cm, có hình lông chim, xẻ thuỳ nông hoặc sâu (tuỳ thuộc vào từng loại giống), mặt lưng lá có lớp lông nhung. Thuộc dạng rễ chùm, hình ống, phát triển khỏe, ăn ngang và nổi một phần trên mặt đất, vươn dài tương ứng với diện tích lá tỏa ra. Hoa là dạng hoa tự đơn hình đầu và bông hoa được tạo bởi hai loại cánh hoa hình lưỡi và hình ống. Cánh hình lưỡi lớn hơn, xếp thành một vòng hoặc vài vòng phía ngoài; cánh hình ống nhỏ hơn, do sự thay đổi hình thái và màu sắc nên được gọi là mắt hoa hoặc tâm hoa. Trong quá trình hoa nở, cánh hoa hình lưỡi nở trước, cánh hoa hình ống nở sau theo thứ tự từ ngoài vào trong theo từng vòng một.
Hoa đồng tiền có rất nhiều màu: trắng, vàng, hồng, đỏ, cam… và mỗi màu lại có một ý nghĩa đặc biệt riêng. Nhưng dù là màu gì đi nữa thì loài hoa này đều tượng trưng cho sự hạnh phúc. Nó còn mang ý nghĩa về vẻ đẹp và điều kỳ diệu. Nó mang đến cho chúng ta sự tươi sáng và vui vẻ. Không những thế, nó còn thể hiện sự ngây thơ, tình yêu và lòng ca ngợi.
Đồng tiền là loại hoa có sản lượng và giá trị kinh tế cao. Ở điều kiện thích hợp có thể ra hoa quanh năm; trồng trọt và chăm sóc đơn giản, ít tốn công, đầu tư một lần có thể thu hoa từ 4 – 5 năm. Đồng tiền có hình dáng cân đối hài hòa, hoa, tươi lâu, giá trị thẩm mỹ cao, nên là loại hoa lý tưởng trong cắm hoa nghệ thuật cũng như trang trí khuôn viên, nhà cửa…
Trong giáo dục và nghiên cứu khoa học, đây cũng là một loài hoa điển hình, nó được dùng như một mô hình sinh học giúp nghiên cứu về sự hình thành của hoa. Trong y học, hoa đồng tiền cũng được coi là một bài thuốc quý. Trong Đông y Trung Quốc gọi là Nhật Quế hoa. Hoa đồng tiền có tác dụng thanh nhiệt, tiêu đờm, làm ngừng cơn ho (bằng cách: phơi khô cánh hoa trong mát, rồi nấu nước uống); dùng chữa trị rắn cắn hay bị thương, sưng đau (cánh hoa đâm nhuyễn, pha với nước chín, lấy nước uống, còn xác thì đắp lên vết cắn, chỗ sưng)… Ngoài ra, trong cây hoa đồng tiền có chứa các dẫn xuất của coumarin (thành phần của thuốc chống đông máu) nguồn gốc tự nhiên.
Ngoài giờ đi làm, ba em lúi húi chăm sóc mấy cây hoa. Em cũng lăng xăng giúp ba tưới nước hoặc lấy dụng cụ cho ba. Có mấy cây đồng tiền, góc cây cảnh của ba tươi hẳn lên. Ngắm hoa em thấy sảng khoái và thư thái vô cùng. Đồng tiền làm tươi thêm cảnh sắc sân nhà. Không gian thoang thoảng hương thơm của hoa làm dịu bớt không khí bụi bặm, tù túng của phố thị. Hoa đồng tiền tươi rất lâu, em rất thích hoa đồng tiền là vậy.
Thuyết minh về hoa đồng tiền – Mẫu 2
Mỗi màu sắc đều có những ý nghĩa riêng và những bông hoa cũng vậy, mỗi loài hoa, mỗi sắc hoa lại mang trong mình những ý nghĩa riêng biệt. Người ta coi hoa hồng đỏ là biểu tượng của tình yêu, hoa hồng vàng biểu tượng cho tình bạn, hoa hồng trắng là biểu tượng cho sự trong sáng, thuần khiết, sự tiếc thương. Cũng như vậy, các loài hoa khác đều có những ý nghĩa riêng cho mình. Nói về hoa đồng tiền, ngay từ cái tên, người ta có thể hiểu ngay ra được ý nghĩa của nó: sự tài lộc, giàu sang. Thế nhưng, phải tìm hiểu sâu về nó, ta mới thấy, hoa đồng tiền thật sự ẩn chứa nhiều điều thú vị!
Hoa đồng tiền hay còn được gọi là cúc đồng tiền, tên khoa học là Gerbera, là một loài hoa thuộc chi của một số loài cây cảnh họ Cúc. Nó được phát hiện bởi nhà thực vật học người Đức Traugott Gerber và miêu tả khoa học trên tạp chí lần đầu tiên vào năm 1889. Trên thế giới có khoảng từ ba mươi đến một trăm loài hoa đồng tiền hoang đã được phát hiện phân bổ tại các khu vực của Nam Mỹ, một số ở châu Phi, Madagascar và ở vùng nhiệt đới châu Á. Có thể nói, hoa đồng tiền phân bổ ở gần như khắp các châu lục và được biết đến vô cùng rộng rãi. Hiện nay ở Việt Nam, người ta trồng và phát triển hơn ba mươi loài hoa đồng tiền khác nhau, có nguồn gốc từ Trung Quốc hoặc Hà Lan. Vì hoa đồng tiền ưa khí hậu ôn đới, cận nhiệt cho nên, hoa được trồng chủ yếu ở Đà Lạt – nơi có khí hậu tuyệt vời nhất ở nước ta.
Về hoa đồng tiền, đây là loài thân thảo, không phân thành các cành mà chỉ đẻ ra các nhánh nhỏ bao quanh lấy cụm hoa chính. Hoa đồng tiền phát triển từ thân cây, còn lá thì vươn chếch mặt đất tầm 15 – 40 độ, có dạng thuôn dài. Cũng như những loài hoa khác, hoa đồng tiền có một chiếc cuống dài, kéo dài từ đài hoa cho tới phần rễ. Mỗi cuống hoa chỉ có một bông hoa độc nhất, các nhánh phụ xung quanh cũng vậy, mỗi cuống chỉ có duy nhất một bông hoa. Chiếc cuống có hình ống, xốp nhẹ và có một lớp lông mỏng phủ đều xung quanh. Khi chúng ta chạm vào thân của cây hoa đồng tiền sẽ có cảm giác hơi rát nhẹ ở các đầu ngón tay do phần gai lông đâm vào da. Đây được coi là cách bảo vệ của hoa trước các tác động từ côn trùng, các loài động vật khác, cũng như môi trường xung quanh.
Hoa đồng tiền cũng như những loài hoa khác, mỗi bông hoa đều được tạo nên từ nhiều cánh hoa xếp lại với nhau theo hình tròn. Từng lớp cánh hoa lớn nhỏ bao quanh phần nhị ở phía giữa tạo nên một vòng tròn hoàn hảo. Mỗi bông hoa đồng tiền gồm hai loại cánh hoa: cánh hoa hình lưới và cánh hoa hình ống. Hai loại cánh hoa này được xếp theo thứ tự từ ngoài và trong, cánh hoa hình lưới lớn hơn bao bọc phía bên ngoài còn cánh hoa hình ống nhỏ hơn thì mọc ở phía trong. Khi bông hoa đồng tiền nở, những cánh hoa hình lưới sẽ bung nở trước tiên, xòe thật rộng rồi mới tới những cánh hoa hình ống. Chúng sắp xếp đều đặn tạo thành một hình tròn, xòe ra bao bọc lấy phần nhị hoa sâu bên trong.
Về phần lá hoa, lá hoa đồng tiền có lá to bản, rộng chừng 8cm và dài tầm 15 – 20cm, thuôn dài như một chiếc lông chim vậy. Giữa những chiếc lá lại được xẻ những rãnh với độ nông sâu khác nhau, tạo nên những độ cong mềm mại cho lá. Ngoài ra, cũng như phần thân hoa, phía mặt sau của lá cũng được phủ một lớp lông mỏng. Rễ hoa được mọc thành dạng chùm, hình ống, phát triển rất mạnh và ăn nổi trên bề mặt đất, tương ứng với diện tích mà lá xòe ra.
Nếu là người hay chơi hoa đồng tiền, hẳn bạn sẽ thấy chúng có rất nhiều màu sắc, xanh, đỏ, da cam, vàng… Đây là một trong những cách để người ta phân loại chúng, đó là bằng màu sắc thường thấy. Thế nhưng, đối với các nhà nông nuôi hoa, người ta lại phân loại hoa đồng tiền theo các giống hoa để có thể tập trung phát triển những giống hoa cho năng suất cao. Phân loại theo giống chia hoa đồng tiền thành các loại như giống Thanh Tú Giai Nhân, giống Thảo Nguyên Nhiệt Đới, giống Kim Hoa Sơn, giống Yên Hưng. Mỗi giống đều có những đặc điểm và nguồn gốc khác nhau. Ví dụ giống Thanh Tú Giai Nhân có nguồn gốc từ Hà Lam, là một trong những loài đồng tiền kép, có hoa màu cánh sen, lá đậm màu. Mỗi cánh hoa có bốn lớp, ba lớp bên ngoài, một lớp bên trong, cuống hoa dài tầm 40 – 45cm. Còn về giống Thảo Nguyên Nhiệt Đới, loài này cũng có nguồn gốc từ Hà Lan, nhưng lại có màu đỏ tươi, nhị hoa màu đen, cây khá ngắn, khá mập mạp. Giống Kim Hoa Sơn thì có nguồn gốc từ Trung Quốc, hoa có màu vàng đỏ, nhị màu đen, lá đậm, phát triển theo kích thước trung bình. Loài Yên Hưng còn lại cũng có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhưng nhị hoa màu xanh. Đây là những giống hoa được trồng nhiều và được biết đến rộng rãi nhất ở Việt Nam ta.
Hoa đồng tiền có nhiều công dụng trong đời sống hàng ngày. Cây được trồng để làm cảnh, làm đẹp trong trang trí nhà cửa và cắm hoa nghệ thuật bới có giá trị thẩm mỹ cao. Ngoài ra người ta còn sử dụng hoa đồng tiền trong nghiên cứu khoa học, làm các mô hình sinh học về sự phát triển của các loài hoa. Trong đời sống hàng ngày, hoa đồng tiền cũng mang tới nhiều lợi ích, tác dụng về sức khỏe như cánh hoa đồng tiền khô giúp thanh nhiệt, tiêu đờm, giảm hoa. Hơn thế, khi bị rắn cắn hay bị đau sưng, có thể dùng cánh hoa đồng tiền giã nát, lọc lấy nước uống còn xác hoa thì đắp lên vết thương. Đã có rất nhiều người sử dụng phương pháp này, đều cho những hiệu quả rất tốt. Và không thể nhắc đến trong vấn đề về tâm linh, hoa đồng tiền là loài hoa được coi mang lại may mắn về tài lộc và giàu sang cho gia chủ. Một chậu hoa đồng tiền trang trí trong nhà sẽ giúp cho gia chủ thêm được nhiều may mắn trong cuộc sống.
Hoa đồng tiền là loài cây khá dễ trồng, ưa sáng, thích hợp với khí hậu ôn đới, cận nhiệt đới, có lẽ vì vậy mà nó được trồng chủ yếu ở Đà Lạt. Cây đồng tiền ưa sống ở điều kiện nhiều nước, có thể trồng cây bằng cách gieo hạt hoặc trồng cây non từ vườn ươm từ 30 – 45 ngày tuổi. Nếu bạn muốn trồng một chậu đồng tiền ở điều kiện nước ta thì hãy chọn lúc sáng sớm hoặc chiều tối, đây là thời điểm trời dịu mát, thích hợp cho cây bén rễ, đâm chồi. Khi trồng, chúng ta phải chú ý trồng cây nông, nổi trên bề mặt đất cho cây dễ thở, dễ sống, và quan trọng là phải đảm bảo đủ nước cho cây bám rễ. Cây ưa nước, ưa sáng nên cần trồng cây vào chỗ nhiều ánh sáng, tưới nước hai đến ba lần mỗi ngày.
Loài hoa đồng tiền là loài hoa vừa mang giá trị thẩm mỹ cao lại cho giá trị kinh tế lớn. Đây là một trong những loài hoa được ưa chuộng nhất nước ta. Bạn có thể bắt gặp ở bất kì đâu trên dải đất nước hình chữ S những bông hoa đồng tiền ở những chậu cây trong nhà hay trong khu vườn của những người dân. Một chậu đồng tiền không chỉ cho vẻ đẹp mà còn mang lại những may mắn, một chậu đồng tiền đầu xuân với sắc đỏ thắm sẽ rước thêm tài lộc và may mắn cả năm cho gia đình.
Hoa đồng tiền là loài hoa được mọi người vô cùng yêu thích. Bởi hoa không chỉ đẹp mà còn có nhiều công dụng trong đời sống hàng ngày. Một đóa hoa đồng tiền biểu trưng cho may mắn, hay cho tinh thần vươn lên bất diệt của con người.
Thuyết minh về hoa đồng tiền – Mẫu 3
Mỗi khi nhắc đến thế giới loài hoa, thật khó có thể quên được loài hoa hồng kiêu sa, kiều diễm – loài hoa vốn được mệnh danh là “nữ hoàng của các loài hoa”, hoa hồng. Biểu tượng của mùa xuân hoa mai. Và cũng không thể nhắc đến hoa đồng tiền loại hoa tượng trưng cho sự giàu có, tài lộc. Đi sâu tìm hiểu về loài hoa này, chúng ta thấy có thật nhiều điều thú vị.
Hoa đồng tiền có nguồn gốc từ Châu Á, Nam Phi và Tasmania. Hiện nay, ở Việt Nam có khoảng hơn 30 giống hoa đồng tiền khác nhau với màu sắc phong phú, đa dạng. Hoa được trồng chủ yếu ở Đà Lạt và những nơi có khí hậu mát mẻ.
Trên thị trường hiện nay, hoa đồng tiền khá nhiều màu sắc khác nhau như: trắng, vàng, hồng, đỏ, cam… và mỗi màu lại mang một ý nghĩa khác nhau. Nhưng dù là màu gì đi nữa thì ý nghĩa hoa đồng tiền đều tượng trưng cho sự hạnh phúc. Không những thế, nó còn thể hiện sự ngây thơ, tình yêu trong sáng và tỏ lòng ca ngợi. Ý nghĩa hoa đồng tiền vàng thể hiện niềm hạnh phúc vô bờ bến. Hoa đồng tiền có ý nghĩa ca ngợi, khích lệ, động viên tinh thần. Ý nghĩa hoa đồng tiền đỏ tượng trưng cho tình yêu say đắm, tha thiết và nồng cháy. Hoa đồng tiền có hình dáng hài hòa, hoa tươi lâu, giá trị thẩm mỹ cao nên thường được trồng ở vườn hay hành lang hoặc cắm trang trí cho ngôi nhà thêm sắc màu.
Hoa đồng tiền rất dễ trồng và thường được trồng quanh năm. Là loại hoa ưa đất tơi xốp, dễ thoát nước, nhiều mùn, vì thế đất trồng đồng tiền thường gồm xơ dừa, than bùn, đất cát (3:3:1). Hoa đồng tiền có thể trồng theo 2 cách là gieo hạt và trồng từ cây non. Đối với gieo cây thì phải phủ một lớp đất mỏng lên bề mặt hạt gieo, ngày tưới phun sương 2 lần vào buổi sáng và tối. Cách trồng từ cây non: Thường đồng tiền được trồng vào các chậu có đất tơi xốp. Chú ý đặt cây vào sao cho thành chậu cao hơn đất trong chậu khoảng 2cm là được.
Hoa có rất nhiều tác dụng trong đời sống hàng ngày. Điều dễ thấy là hoa đồng tiền được dùng để làm cảnh trong nhiều gia đình. Chúng ta trồng hoa đồng tiền trong vườn nhà, chúng ta cắm hoa hồng trong lọ, chúng ta tặng nhau những đoá hoa hồng… Hoa đồng tiền thể hiện sự thành đạt, hiển vinh… Số lượng hoa trong mỗi đoá cũng mang những ý nghĩa nhất định thể hiện suy nghĩ của người tặng, đặc biệt là đối với những đóa hoa nhiều màu sắc. Không chỉ dùng để làm đẹp, hoa hồng còn rất nhiều tác dụng khác. Từ cánh hoa, nhiều quốc gia đã chiết xuất tinh dầu tạo nên những nền công nghiệp nước hoa khổng lồ như Bun-ga-ri, Pháp,… Cũng từ hoa đồng tiền, dân gian ta chế ra những bài thuốc chữa nhiều bệnh thông thường: cảm, đau bụng,…
Có nhiều tác dụng như vậy nhưng hoa đồng tiền không hề khó tính chút nào. Hoa có thể nở bốn mùa trong năm để dâng hương sắc cho cuộc đời đầy ý nghĩa này. Ở nước ta, hoa đồng tiền đẹp nổi tiếng nhất là hoa của cao nguyên Đà Lạt. Từ Đà Lạt, hoa này chẳng những đi khắp mọi nẻo đường đất nước mà hoa còn đến với bạn bè khắp năm châu.
Thuyết minh về hoa đồng tiền – Mẫu 4
Mọi người ai cũng đều biết đến ý nghĩa của hoa hồng, nhưng các bạn có biết hoa đồng tiền tượng trưng cho gì không? Hoa đồng tiền có hàng trăm giống khác nhau với nhiều màu sắc : trắng, hồng. đỏ, da cam…
Loài hoa này tượng trưng cho sự hạnh phúc. Nó còn mang ý nghĩa về vẻ đẹp và điều kì diệu. Nó mang đến cho chúng ta sự tươi sáng và vui vẻ; không những thế, nó còn thể hiện sự ngây thơ, tình yêu và lòng ca ngợi.
Bạn có thể tìm thấy được sự trong trắng, tinh khiết nơi đồng tiền trắng, tình yêu ở những bông hoa màu đỏ, niềm hạnh phúc của hoa đồng tiền vàng hay sự ca ngợi, khích lệ nơi đồng tiền hồng.
Có rất nhiều loài hoa có thể bày tỏ suy nghĩ và tình cảm của bạn nhưng hoa đồng tiền luôn nổi bật hẳn lên bởi sự rực rỡ đầy tươi vui của chúng. Khi bạn tặng cho ai đó những bông hoa này, chúng không những truyền đạt cho họ những thông điệp sâu sắc đầy ý nghĩa mà còn giúp đem lại một ấn tượng khó quên.
Hoa đồng tiền biểu trưng cho sự tin tưởng và sự sôi nổi. Nếu bạn muốn chinh phục trái tim của một cô gái cá tính, tự tin và sôi nổi, hãy tặng cô ấy một chậu hoa đồng tiền. Những bông hoa màu hồng dễ thương vươn thẳng lên từ tán lá xanh thẫm thể hiện một cá tính độc lập nhưng vẫn dịu dàng, mềm mại. Cánh hoa xòe rộng, màu sắc tươi sáng thể hiện sức sống mãnh liệt, sự nhiệt tình tuyệt vời.
Đặc biệt, hoa đồng tiền có thể nở quanh năm. Do cây dễ trồng và chăm sóc nên cô ấy chỉ cần tưới hoa cho cây ngày 1/2 lần là cây có thể cho hoa. Và dĩ nhiên, mỗi lần quan sát hoa nở, cô ấy sẽ nhớ đến bạn
Nghe đến tên em là chúng ta thấy khoái rồi chứ chưa kể đến việc được chiêm ngưỡng em ấy. Những bông hoa đồng tiền xinh xinh vươn thẳng lên từ tán lá to xanh thẳm, mạnh mẽ và kiên định, nhưng không kém phần dịu dàng, mảnh dẻ với cuống dài xanh mướt và cánh hoa xòe rộng bên trên. Hoa đồng tiền thuộc họ cúc, được mọi người yêu thích vì sắc màu đa dạng và bởi vì tên gọi nữa chứ. Hoa đồng tiền có hàng trăm giống khác nhau và nhiều màu sắc: trắng, đỏ, vàng, da cam, hồng… Loài hoa này tượng trưng cho sự sung túc, niềm vui sướng hân hoan, và tài lộc.
Bạn có thấy hoa Đồng Tiền đẹp không? Đặc biệt hơn nữa là hoa Đồng Tiền rất dễ trồng có thể ra hoa quanh năm thế tại sao tụi mình không thử thay vì mua chứng về cắm bằng việc mua hạt giống của hoa này về trồng nhỉ ? Biết đâu mình sẽ có nguyên vườn hoa Đồng Tiền xinh yêu lung linh màu sắc
Cây hoa đồng tiền còn gọi là cây kim tiền. Trong những dịp đầu xuân năm mới, nếu trồng hoa hoặc cắm hoa đồng tiền sẽ mang đến nhiều tài lộc và tiền của cho gia đình.
Cây hoa đồng tiền còn gọi là cây kim tiền. Trong những dịp đầu xuân năm mới, nếu trồng hoa hoặc cắm hoa đồng tiền sẽ mang đến nhiều tài lộc và tiền của cho gia đình.
Giới thiệu về một loài cây
Thuyết minh cây chè
Nếu được chọn một loại nước gắn liền với người dân Việt Nam thì chẳng phải thứ nước cao sang, phức tạp gì mà chính là nước chè hay nước trà. Cây chè từ lâu đã đi vào đời sống của người dân, trở thành một loại cây quen thuộc.
Gốc gác của cây chè theo nghiên cứu là nằm ở vùng Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á. Đây là loại cây thích hợp sống ở những vùng có khí hậu nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, tiêu biểu như là Việt Nam. Đất nước ta có những đồi chè bạt ngàn ở Thái Nguyên, Mộc Châu, Đà Lạt. Từng hàng chè này nối tiếp hàng chè kia với màu xanh tràn đầy sức sống nối tiếp tận chân trời. Hình ảnh thanh bình này đã khiến cho lòng người thêm khoan khoái, đã đi vào bao bức ảnh và là phông nền lý tưởng cho nhiều video ca nhạc hay giới thiệu vẻ đẹp của đất nước Việt Nam. Đặc tính của chè là được trồng trên vùng cao khoảng một nghìn năm trăm mét. Với độ cao lý tưởng này tuy chè phát triển chậm nhưng bù lại lại hấp thụ rất nhiều sinh dưỡng của đất trời, hương vị của nắng, gió, sương càng làm cho lá chè thơm tho.
Chè hay trà thuộc loại cây lưu niên, không mọc riêng lẻ mà mọc thành bụi. Người ta thường cắt tỉa cho chiều cao của cây chè chỉ còn hai mét để cây tập trung phát triển các phần trọng điểm khác, đặc biệt là lá. Chè chỉ gồm một thân chính, có thể coi là thuộc loại thân gỗ hoặc bán gỗ. Từ đây các cành nhỏ khác cũng đâm ra tạo thành một tán được che phủ bởi màu xanh của lá. Chè có hệ rễ cái dài đâm sâu vào lòng đất hút chất dinh dưỡng. Mầm sinh dưỡng của cây cho cành và lá còn mầm sinh thực thành nụ hoa và quả. Lá chè mang hình bầu dục, thuôn thuôn về hai đầu. Nhưng người ta sẽ thường thu hoạch phần búp trà, tức là khi lá trà vẫn còn non, xanh nõn rà. Mỗi búp chỉ vài ba lá.
Chè thường được dùng để pha nước uống. Có hai loại chè tươi và chè khô. Chè tươi được pha trực tiếp từ những lá chè hái ngoài vườn hay trên đồi về. Còn chè khô là loại đã thông qua cả một quy trình sản xuất. Một năm thường có ba vụ chè. Lá chè được hái, đặc biệt là nên hái vào lúc sáng sớm khi những giọt sương vẫn còn đọng trên lá, sau đó đem về phơi khô. Rồi chè được đem vào tôn quay, loại bỏ những phần vụn nát rồi bước vào công đoạn vò chè. Sau khi vò, chè được đưa ra phơi cho lên hương. Cuối cùng có thể đem đóng gói và xuất ra thị trường. Chè khô này cũng là nguyên liệu của chè sen, loại chè nhiều người mong muốn thưởng thức.
Trà cũng rất tốt cho sức khỏe. Trước tiên nó có tác dụng giải khát, là thức uống không thể thiếu của các quán nước, thậm chí còn hình thành nét văn hóa “trà đá vỉa hè”. Ngoài ra trong trà xanh còn có các thành phần ngăn ngừa ung thư, diệt khuẩn. Trà còn được dùng làm nguyên liệu cho một số loại thuốc Đông Y. Trà cũng còn là sự lựa chọn của các chị em phụ nữ trong phương pháp làm đẹp. Lên du lịch ở các vùng trồng chè, có túi chè mang về làm quà biếu cho người thân, họ hàng thì quả là đáng quý mỗi dịp nhà có khách. Ngoài ra, chè cũng có giá trị kinh tế, là mặt hàng được xuất khẩu ra nhiều nước. Uống trà cũng được coi là cả một đạo, là phương thức thanh lọc tâm hồn để tận hưởng cuộc sống, là dư vị cho mỗi vị khách phương xa vấn vương mãi. Tuy nhiên, uống nhiều trà quá cũng không tốt cho cơ thể, dễ gây ra vàng răng hay chứng mất ngủ.
Cây chè đã cứ thế đi vào gắn bó với đời sống con người. Được thưởng thức một chén trà lòng chợt bình yên đến lạ.
Thuyết minh cây xoài
Từ xưa đến nay, xoài vẫn luôn là loại cây vô cùng thân thuộc và gần gũi đối với mọi người, thậm chí đây còn là loại quả yêu thích đối với một số người. Vậy đã bao giờ chúng ta thử tìm hiểu kĩ về loại quả này chưa?
Cây xoài có tên khoa học là mangifera indica L.(Anacardiaceae). Cả thế giới gọi là “Vua của loài quả”. Cây ăn quả vùng nhiệt đới. Không ai biết chính xác nguồn gốc của xoài, nhưng nhiều người tin là chúng có nguồn gốc ở Nam và Đông Nam Á, bao gồm miền đông Ấn Độ, Myanmar, Bangladesh. Xoài được phân chia thành rất nhiều loại nhưng một cây xoài bình thường sẽ có những đặc điểm cơ bản sau: Một cây xoài trưởng thành thường cao khoảng ba đến bốn mét. Từ xa nhìn lại, cả cây xoài như một chiếc ô màu xanh khổng lồ. Rễ cây to cắm sâu vào lòng đất như người mẹ hiền cần cù hút chất dinh dưỡng nuôi cây. Cũng như rễ, thân cây khá to, một vòng tay trẻ em ôm không xuể. Thân cây có màu nâu sẫm, trên thân có một vài vết cắt như in hằn dấu ấn của thời gian. Từ thân cây tỏa ra nhiều cành như những cánh tay lực lưỡng bảo vệ cây khỏi mọi thứ xung quanh. Lá cây xoài có màu xanh, to hơn lá bình thường một chút và đặc biệt là có mùi rất thơm giống mùi quả xoài. Một số người bảo chỉ cần ngửi lá xoài là có thể biết được cây đó cho ra quả xoài ngot hay chua. Đến mùa ra hoa kết quả, cả cây xoài như được tô điểm bằng những bông hoa xoài trông rất đẹp. Hoa xoài màu trắng trắng, nhỏ li ti và thường mọc thành chùm. Khi những bông hoa rụng đi thì cũng là lúc những quả xoài bắt đầu xuất hiện và lớn dần theo thời gian. Quả xoài to to hơi dài một chút và có vỏ màu xanh, khi chín sẽ chuyển sang màu vàng. Đằng sau lớp vỏ mỏng đó là những miếng xoài thơm ngon, ngọt lịm khiến ai ăn cũng phải say mê. Những miếng xoài vàng tươi hấp dẫn biết bao khiến không ai có thể chối từ thứ quả này. Và phần bên trong cùng của quả xoài chính là hột xoài, đây là phần không thể ăn được là cũng là bộ phận dùng để gieo mầm tạo ra một cây xoài mới.
Cây xoài có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mọi người. Trước hết đó là loại cây giàu giá trị dinh dưỡng cao rất tốt cho sức khỏe của mọi người. Hơn nữa, đây còn là loại trái cây vô cùng dễ ăn. Chúng ta có thể ăn trực tiếp trái xoài khi đã chín hoặc có thể xay quả xoài để làm thành sinh tố rất hấp dẫn. Không chỉ xoài chín mà cả xoài xanh cũng được sử dụng để làm những món ăn vặt như xoài lắc vô cùng được ưa chuộng. Bên cạnh đó, xoài cũng là loại cây ăn quả đem lại nguồn thu nhập cho mọi người để có thể trang trải cuộc sống. Ở một số nơi người ta còn xuất khẩu xoài để tăng thêm thu nhập…
Như vậy, cây xoài có giá trị cao đối với cuộc sống chúng ta. Vì vậy mỗi người cần phải nâng cao nhận thức để chăm sóc và bảo vệ loài cây này để cây có thể phát triển một cách tốt nhất và cho ra những quả xoài giàu giá trị dinh dưỡng cho mọi người cùng thưởng thức.
Thuyết minh cây bưởi
Cây bưởi là một trong những cây ăn quả quen thuộc và có lợi ích rất lớn trong kinh tế với con người. Vì thế theo một lẽ tự nhiên cây bưởi trở nên gắn bó và được mọi người yêu thích.
Bưởi có nguồn gốc từ vùng Đông Nam Á, Đông Dương, Trung Quốc, Ấn Độ có tên khoa học là Citrus Grandis thuộc họ Cam quýt, ưa khí hậu nóng ẩm nên chỉ trồng được ở các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới nóng. Các quần đảo Angti (thuộc vùng biển Caribe – Châu Mỹ) cũng có bưởi nhưng là bưởi chùm, tên khoa học là Citrus paradisi, còn gọi là bưởi Pômelô. Phương Tây ưa bưởi chùm ngược lại với phương đông chúng ta ưa bưởi ta vì mọng nước hơn.
Cây bưởi thuộc loại cây thân nhỏ, sống đa niên, có thể sống hơn 30 năm tuỳ vào giống cây và chăm sóc. Bưởi là loài cây to, cao trung bình khoảng 3-4 m ở tuổi trưởng thành, vỏ thân có màu vàng nhạt, ở những kẽ nứt của thân đôi khi có chảy nhựa. Từ thân cây chia thành ba cành lớn, từ ba cành lớn chia thành nhiều cành, cành có gai dài, nhọn. Lá bưởi có gân hình mạng, phiến lá hình trứng, dài 10 -12 cm, rộng 5-6 cm, hai đầu tù, nguyên, dai, cuống có dìa cánh to.
Hoa bưởi rất đẹp. Hoa bưởi màu trắng ngà ngà, là loại hoa kép có năm cánh nở uốn cong bao quanh nhị vàng như màu nắng mùa thu. Hoa bưởi không mọc đơn lẻ mà mọc thành từng chùm với nhau. Mỗi chùm có khoảng sáu đến mười bông hoa. Hoa bưởi rất thơm. Mùi hương nhè nhẹ không gắt mà thoang thoảng trong gió rất dễ chịu.
Quả bưởi hình cầu to, vỏ dày, màu sắc tùy theo giống. Da bưởi trơn, bóng. Nhìn xa trông những quả bưởi lúc lỉu thích mắt. Hạt bưởi màu trắng, dẹt, rất có lợi trong nhiều bài thuốc tốt.
Họ hàng nhà bưởi rất phong phú và đa dạng. Việt Nam là một trong những vùng nguồn gốc cây bưởi nên có rất nhiều giống bưởi, có nhiều giống bán hoang dại chua đắng, nhưng cũng có nhiều giống ngon như bưởi Đoan Hùng, bưởi Diễn, bưởi Phúc Trạch, bưởi Thanh Trà, bưởi Năm Roi, bưởi da xanh, bưởi Biên Hoà…
Cây bưởi có rất nhiều lợi ích đối với đời sống chúng ta. Hoa bưởi thơm thường được dùng để tết thành vòng hoa, ướp chè. Chè ướp hương hoa bưởi trở thành thức uống đặc sản dân giã của con người Việt Nam. Hoa bưởi cũng được dùng cùng vỏ bưởi để nấu thành nước gội đầu cho các bà các mẹ các chị vì không chỉ gội rất sạch mà còn rất thơm.
Tháng Tám hàng năm là mùa bưởi chín. Những quả bưởi chín lúc lỉu được hái xuống mang lên thắp hương ngày Rằm. Những múi bưởi dưới bàn tay trang trí khéo léo được tạo thành những hình thù ngộ nghĩnh cho mâm hoa quả Trung Thu. Bởi vậy mùa thu nhắc tới gắn liền với cây bưởi.
Ngoài ra bưởi còn được chế biến thành nhiều thức ăn tốt cho sức khoẻ như salad, chè bưởi, nước ép bưởi,… Những món ăn đó có chứa nhiều vitamin có lợi cho da và hệ tiêu hoá. Vì thế bưởi còn được sử dụng trong các bài thuốc chữa các bệnh như đau bụng, ăn không tiêu, vàng da,…
Những người dân trồng bưởi muốn thu được vụ mùa cao phải có những bí quyết riêng của mình. Họ cần chú ý đến những yếu tố sau : Giống cây phải chuẩn, kỹ thuật chăm sóc cây phải khéo léo, chính xác,…Ngoài ra để cây sinh trưởng và phát triển tốt còn phụ thuộc vào những yếu tố tự nhiên như : Đất ẩm, kết cấu xốp, khí hậu ôn hoà, nguồn nước cung cấp cho cây phải sạch, phân bón vừa đủ, đúng lúc…
Cây bưởi có rất nhiều lợi ích trong cuộc sống chúng ta. Nó là loại cây đa năng góp phần tăng nguồn vốn sinh hoạt cho người dân. Vì thế cây bưởi luôn được mọi người yêu quý và trân trọng.
Thuyết minh cây phượng vĩ
Trong cuộc sống và những kỷ niệm học sinh, mùa hạ thường đến bằng mùa thi, cùng với những nhánh phượng vĩ đỏ ối lấp ló báo hiệu ngày chia taỵ Cùng với mầu đỏ rực của phượng vĩ, là những hàng lưu bút, là những món quà nho nhỏ lưu niệm tặng nhau của những cô cậu học trò. Phượng vĩ dường như là nhân chứng cho những tình yêu, lãng mạn mơ mộng vu vơ của thời học trò áo trắng cắp sách. Và còn nhiều nữa. Trong mỗi chúng ta, nếu đã trải qua thời áo trắng đến trường, ắt hẳn mỗi người đều mang một kỷ niệm đặc biệt, gắn liền với phượng vĩ. Từ bao giờ, phượng vĩ trở thành biểu hiện của mùa hạ, và của một thời học trò. Có phải vì thế mà phượng vĩ còn có cái tên Hoa Học Trò?
Phượng vĩ có thật nhiều tên, từ tên khoa học Delonix regia, thuộc gia đình Caesalpiniaceae, Họ poincianas có cùng một họ với đậu (Leguminosae), giống Delonix. Nguyên giống phát xuất từ Madagascar, phượng vĩ đã được đi du lịch đến khắp mọi miền nhiệt đới trên thế giới, nhất là Đông Nam Á và Châu Mỹ Latin. Có lẽ vì mầu sắc rực rỡ đỏ rực nổi bật trên nền trời, nên phượng vĩ được so sánh như những ngọn lửa giữa rừng chăng? Chỉ biết rằng, mầu đỏ thắm của phượng vĩ đã được thổ dân vùng Madagascar cho vào hạng hoàng tộc của thảo mộc, cũng như nó được công nhận là hoa biểu tượng cho xứ Puerto Rico.
Thuộc vào loại thân mộc, cây phượng vĩ cao khoảng 6-12 mét, với tàn lá xoè rộng như chiếc dù lớn, với những cành dài khoảng 20-40cm, dầy đặc những lá kép nhỏ li ti. Hoa phượng đỏ thẫm, đường kính khoảng 6-10cm mỗi hoa, với năm cánh hoa xoè rộng. Cánh hoa đỏ thẫm với những đốm đậm li ti trên cánh, và một trong năm cánh hoa màu vàng cam, với những đốm đỏ thẫm, hơi quăn góc, và thô hơn những cánh còn lại. Bên trong nhụy hoa là tập hợp của mười nhánh, dài khoảng 10cm, với phấn hoa thu hút ong bướm. Sau khi hoa tàn, từ đài hoa mọc ra trái phượng, dẹp và dài khoảng 2 feet, khi chín đen thẫm và vỏ cứng, với hạt phượng màu nâu thẫm bên trong. Trái phượng có thể được dùng làm củi đốt. Ở những miền quê Việt Nam, đôi lúc hạt phượng được đem rang trong cát để ăn vì có nhiều dầu, vị bùi bùi thơm thơm.
Trong ngành tinh chế hóa chất, hương và dầu thơm (essence) của phượng vĩ được dùng trong việc xoa bóp (massage) làm giảm căng thẳng cơ bắp. Hương phượng vĩ giúp chúng ta có thể tách rời khỏi những phiền toái, và những cuộc tranh cãi không cần thiết. Biết sử dụng hương hoa phượng, người ta có thể thoải mái hơn, cũng như cảm thấy nhẹ nhàng hơn để bắc nhịp cầu liên lạc giữa người với người. Bởi mùi hương hơi nồng, nhưng lại rất dễ dàng ăn sâu vào lòng người, cũng như sự chuyển vận và dễ dàng hoà nhập vào môi sinh, phượng vĩ vì thế được người ta tin tưởng có tác dụng làm cho con người bớt căng thẳng, dễ dàng kết bạn, dễ đi sâu vào lòng người…Nó giúp người ta giao thiệp dễ dàng hơn, và lịch sự hơn với nhau, cũng như vượt qua được những bực bội, giận dữ, để tâm hồn thoải mái hơn.
Phượng vĩ được gọi là mệnh phụ của những loại cây cảnh. Với tán cây rực rỡ, hào nhoáng mỗi khi hoa nở rộ, loại cây duyên dáng này xứng đáng để được liệt kê vào hạng hoàng tộc trong tất cả các loại cây cảnh. Phượng vĩ nở rất lâu, và mùa phượng vĩ thường kéo rất dài, từ tháng năm, sáu đầu mùa hạ, cho đến cuối mùa vào tháng chín. Thông thường vào mùa hạ ở những vùng nhiệt đới hay có giông bão, thế mà phượng vỹ lại rất kiên cường, và rất đáng ngạc nhiên rằng sau những cơn mưa bão đó, cây vẫn không bị đốn, và hoàn toàn không sao cả. Chỉ có những cành cây giòn dễ gãy, để cho cả lùm cây phượng không bị đốn vì gió. Có thể vì thế mà cây phượng tồn tại được dưới trời bão chăng?
Vì cái đẹp của phượng vĩ, và vì sự bền bỉ của cây phượng qua bao nhiêu năm tháng, dù trụi cành giữa mùa đông nhưng xanh tươi trong những tháng ngày còn lại trong năm, và vì tán lá xanh um mở rộng như chiếc dù che nắng mưa, phượng vĩ có lẽ vì thế được ưa chuộng trong những khuôn viên học đường. Cũng có lẽ vì vậy mà phượng vĩ thường hay được trồng trong những công viên, dọc theo hai bên đường phố hầu tạo được bóng mát trên đường, và làm cảnh đẹp mỗi mùa phượng nở. Có lẽ vì vẻ đẹp của hoa phượng khá rực rỡ, lại rất lạc quan, nên mỗi năm vào tháng sáu, miền nam Florida thường tổ chức hội hoa phượng vĩ (Royal Poinciana Fiesta) để cùng thưởng hoa, như người Nhật thường có hội hoa Sakura chăng? Chỉ biết, hàng năm, tại quê nhà, mỗi mùa phượng vĩ nở rộ, là mỗi người trong chúng ta lại nao nao nhớ về một mùa phượng vĩ riêng của chính mình. Cũng có lẽ vì vẻ đẹp của phượng vĩ mà biết bao người, từ Âu đến Á, đã viết biết bao nhiêu mẩu truyện, làm biết bao nhiêu bài thơ, hoạ bao bức tranh, và nhất là phối âm bao nhiêu bản nhạc riêng cho phượng vĩ, ví dụ như bản “Poinciana”, và có phải vì thế, bao tâm hồn thi sĩ bắt đầu biết nhớ, và biết mong “Sớm Nở Phượng Yêu”…
Dù năm tháng đã qua đi, nhưng cây phượng vĩ vẫn nằm nguyên đó, che nắng mưa cho học trò và tạo nên những sắc hoa làm đẹp cho đời. Chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn của biết bao thế hệ học trò.
Thuyết minh về cây chuối
Đất nước Việt Nam ta được thiên nhiên ban tặng cho rất nhiều loại trái cây thơm ngon. Mỗi loài mang một hương vị khác nhau, một hình dáng khác nhau. Và có lẽ về sự dẻo thơm thì chuối là loại quả thơm ngon nhất trong số tất cả các loại hoa quả. Ngoài ra, cây chuối còn rất nhiều tác dụng trong đời sống Việt Nam.
Chuối được trồng rất nhiều ở nông thôn và rất ưa nước nên người ta thường trồng bên ao hồ rất nhanh tươi tốt; còn ở rừng, bên những khe suối hay thung lũng, chuối mọc thành rừng bạt ngàn, vô tận. Chuối phát triển rất nhanh. Chuối có gốc tròn như đầu người, lớn dần theo thời gian, có rễ chùm nằm dưới mặt đất. Thân chuối thuôn, thẳng, có màu xanh rì là do từng lớp lá mọc đè lên nhau thành từng lớp, từng lớp, bao trùm cái ruột rỗng bên trong. Lá chuối mọc thành từng tàu, to bản. Mỗi cây chuối đều cho một buồng chuối. Có buồng chuối trăm quả và nhiều hơn thế. Không thiếu những buồng chuối dài từ ngọn cây uốn trĩu xuống tận gốc cây. Chuối chặt theo nải. Quả chuối có nhiều hình dạng tùy thuộc vào từng loại khác nhau. Ví dụ: chuối ta có dáng thuôn dài, vỏ xanh; còn chuối tiêu quả căng tròn, vỏ mỏng, thịt dày, vỏ vàng. Ngoài ra còn có chuối hương, chuối ngự, chuối sứ, chuối mường…
Trong đời sống vật chất của con người Việt Nam thì chuối là một loài cây hữu dụng từ thân đến lá, từ gốc đến hoa, quả. Thân chuối rồng nên người xưa hay dùng thay phao để tập bơi, ngoài ra còn làm thức ăn cho gia súc. Lá chuối tươi rửa sạch dùng để gói xôi, bánh giầy, bánh cốm, bánh chưng… và một trò chơi dân gian mà trẻ con hay chơi là cưỡi ngựa. Lá chuối khô cũng dùng để gói bánh gai hay cuộn chặt thay nút chai khá tốt. Bắp chuối thì chẻ ngọn nhỏ làm nộm, tương tự với nõn chuối làm rau sống hay ăn kèm với bún ốc, bún riêu. Trái chuối xanh hay được nấu cùng các thức ăn có vị tanh như ốc, lươn,… vừa khử tanh lại vừa làm cho món ăn thêm ngon, thêm đa dạng. Trái chuối chín là một thức quả được nhiều người ưa chuộng.
Cây chuối cho ta thật nhiều công dụng, không chỉ trong đời sống vật chất mà còn ở đời sống tinh thần: cây chuối là biểu tượng cho làng quê Việt Nam. Nải chuối chín không thể thiếu trong các mâm cúng trời, đất, tổ tiên. Cây chuối gắn liền với cuộc sống nông thôn, với đất nước, dân tộc ta.
Cây chuối gắn bó từ bao đời nay và đã dâng hiến tất cả cho con người Việt Nam, từ đời sống vật chất cho tới đời sống tinh thần. Cây chuối là niềm tự hào không chỉ của thiên nhiên, của đất mẹ mà còn của nông dân Việt Nam; cây chuối sẽ mãi là hình ảnh đẹp trong lòng mọi người.
Thuyết minh cây vải
Nếu như đặc trưng của mùa xuân là mưa phùn se lạnh, hoa đào hoa mai khoe sắc, thì dấu ấn riêng của mùa hè lại là hương vị thơm mát ngọt lành của hoa trái. Đó là hoa phượng đỏ rực một góc trời, là bằng lăng tím bâng khuâng cùng tà áo trắng, là cái ngọt thanh của dưa hấu hay ngọt bùi của khoai lang. Mùa hè còn là mùa của vải thiều-thứ vải chín từ cái nắng chang chang của khí hậu nhiệt đới đã trở thành một thứ đặc sản không thể thiếu của mảnh đất Việt Nam.
Vải là thứ cây thân gỗ, thuộc họ Bồ Hòn, có nguồn gốc từ miền Nam của Trung Quốc. Du nhập về Việt Nam, vải được trồng nhiều ở huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương hay Huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang. Trung bình một cây vải cao từ 5 đến 10 mét. Tán vải xum xuê xanh mướt, bao phủ quanh gốc cây. Lá vải có hình lông chim, hai phiến lá hơi cụp lại từ gân chính, được xếp so le trên từng nhánh cành. Hoa vải có màu trắng xanh nhạt, mọc thành từng chùm, nổi bật giữa muôn vàn tán lá. Dưới cái nắng gay gắt, rực rỡ của mùa hạ, từng chùm hoa dần trở thành những chùm quả sai trĩu. Quả vải còn non có màu xanh lá mạ, vỏ sần. Khi vải chín thì chuyển dần sang đỏ thẫm, vỏ cũng trở nên nhẵn hơn. Hạt vải có màu đen tuyền, được bao phủ bởi một lớp cùi trắng mịn, mọng nước. Vải chín có vị ngọt rất riêng
Bởi vẻ thanh mát, ngọt lành, vải hấp dẫn từ cụ già đến em nhỏ. Sau mỗi bữa ăn, vải được dùng làm đồ tráng miệng. Vào những ngày hè oi ả, vải ướp lạnh như một thức quà để giải khát. Khi tách riêng hạt còn có thể kết hợp với hạt sen để nấu thành chè. Ở một vài nơi, cây vải còn được xem như một loại cây cảnh, góp phần làm nên màu xanh tươi mát cho ngôi nhà. Thế nhưng, thuộc tính của vải vốn nóng, khi ăn nhiều có thể gây mụn nhọt trên da hoặc loét miệng. Bởi vậy, khi ăn vải nên ăn vừa đủ để có thể thưởng thức vị ngon riêng của thứ quả này.
Vải chín vào đầu mùa hạ, nên một vụ vải thường bắt đầu vào mùa Xuân. Khoảng từ tháng 1 đến tháng 2, người ta đã chuẩn bị cho một vụ mới. Giữa tháng 3, vải đã bắt đầu ra hoa và dần kết quả. Thu hoạch vải thường vào cuối tháng 8 hoặc tháng 9. Đây là thời điểm quả vải chín hoàn toàn và có vị ngọt sắt.
Giống như các loại cây khác, vải cũng cần có cách chăm sóc riêng. Khi trồng cần bới sẵn một hố nhỏ, sâu tầm 20cm, đặt cây con vào chính giữa hố rồi lấp đất. Điều quan trọng nhất chính là phải dùng tay để lấp và chèn đất cho thật chặt. Sau đó rào cẩn thận xung quanh để các tác nhân bên ngoài không làm ảnh hưởng đến cây. Trong thời gian cây phát triển, cần chú ý tưới nước, bón phân, phun thuốc cho đúng thời điểm, liều lượng.
Ngày nay, khi Xã hội ngày một phát triển, vải nhanh chóng trở thành một trong những mặt hàng nông sản có thương hiệu, được bày bán rộng rãi trên khắp cả nước. Quả vải, mà nhất là giống vải thiều Thanh Hà nổi tiếng có giá trị không nhỏ về mặt kinh tế, giúp hàng loạt hộ gia đình thoát nghèo, đem lại lợi nhuận và danh tiếng cho Vùng Đồng bằng sông Hồng nói riêng, cho ngành nông sản Việt Nam nói chung. Bên cạnh đó, bằng sự cải tiến về Khoa học kĩ thuật, những giống vải chín mọng, hạt nhỏ, cùi dày, phòng trừ sâu bệnh tốt đã thu hút rất khách hàng quốc tế, đưa vải Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc, Pháp, và các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Thật chẳng sai khi nói: Vải là thứ quả nổi bật trong bữa tiệc đầy hương thơm vị ngọt của mùa Hè. Cây vải đã trở thành loài cây thân thuộc và gần gũi, gắn bó mật thiết với cái nắng rực rỡ ở Việt Nam, là thứ quà mà mỗi người con xa xứ khi trở về đều làm quà biếu. Hi vọng rằng, trong thời đại Khoa học Kĩ thuật ngày một phát triển, con người sẽ lai tạo ra nhiều giống vải ngon hơn, ngọt hơn, hấp dẫn hơn, để quả vải được đến gần hơn với mọi người mọi nhà, và thương hiệu Vải Việt Nam sẽ lan truyền trên toàn thế giới.
Thuyết minh về cây cà phê
Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt nam từ năm 1870, mãi đến đầu thế kỷ 20 mới được phát triển trồng ở một số đồn điền của người Pháp. Năm 1930 ở Việt nam có 5.900 ha.
Trong thời kỳ những năm 1960-1970, cây cà phê được phát triển ở một số nông trường quốc doanh ở các tỉnh miền Bắc, khi cao nhất (1964-1966) đã đạt tới 13.000 ha song không bền vững do sâu bệnh ở cà phê Arabica và do các yếu tố tự nhiên không phù hợp với cà phê Robusta nên một số lớn diện tích cà phê phải thanh lý.
Cho đến năm 1975, đất nước thống nhất, diện tích cà phê của cả nước có khoảng trên 13.000 ha, cho sản lượng 6.000 tấn.
Sau 1975, cà phê ở Việt Nam được phát triển mạnh tại các tỉnh Tây nguyên nhờ có vốn từ các Hiệp định hợp tác liên Chính phủ với các nước: Liên xô cũ, CHDC Đức, Bungary, Tiệp khắc và Ba lan, đến năm 1990 đã có 119.300 ha. Trên cơ sở này, từ 1986 phong trào trồng cà phê phát triển mạnh trong nhân dân, đến nay đã có trên 390.000 ha, đạt sản lượng gần 700.000 tấn.
Ngành cà phê nước ta đã có những bước phát triển nhanh vượt bậc. Chỉ trong vòng 15-20 năm trở lại đây chúng ta đã đưa sản lượng cà phê cả nước tăng lên hàng trăm lần. Thành tựu đó được ngành cà phê thế giới ca ngợi và chúng ta cũng đã từng tự hào vì nó. Tuy nhiên trong vài năm lại đây do kích thích mạnh mẽ của giá cả thị trường, cà phê đã từng mang lại cho các nhà sản xuất lợi nhuận siêu ngạch. Tình hình phát triển cà phê đã ra khỏi tầm kiểm soát của ngành cũng như của Nhà nước, và chính vì thế mà sự tăng trưởng nhanh chóng với mức độ lớn đã có tác động quan trọng trong việc góp phần đẩy ngành cà phê thế giới đến thời kỳ khủng hoảng thừa. Giá cà phê giảm liên tục đến mức thấp kỷ lục 30 năm lại đây. Người ta hô hào trữ lại cà phê không bán, người ta chủ trương huỷ bỏ hàng loạt cà phê chất lượng kém… Thời đại hoàng kim của ngành cà phê đã qua đi, ngành cà phê bước vào thời kỳ ảm đạm và có phần hoảng loạn, đài phát thanh và báo chí thường xuyên đưa tin nông dân chặt phá cà phê ở nơi này, nơi khác…
Có thể nói đây là tình hình chung của ngành cà phê toàn cầu và nó tác động lớn đến ngành cà phê nước ta, một ngành cà phê đứng thứ nhì thế giới với quy mô sản xuất không ngừng được mở rộng. Tình hình thị trường thế giới tập trung vào những thay đổi then chốt của nền kinh tế cà phê thế giới, cán cân cung cầu và vận động của giá cả thị trường.
Ngoài cà phê Robusta hiện đang chiếm gần hết diện tích và sản lượng ra, Việt Nam đang thực hiện một chương trình mở rộng diện tích cà phê arabica, trong đó có cả một chương trình chuyển dịch cơ cấu giống đưa một số diện tích cà phê từ Robusta sang Arabica.
Thuyết minh về cây dừa
“Bến Tre dừa ngọt sông dàiBến Tre dừa xanh bát ngát”
Nhắc đến Bến Tre là ta không thể không nhắc đến dừa- một loại cây quen thuộc với người dân Việt ta. Đi dọc dải đất miền Tây nắng gió ta nhất định sẽ bắt gặp những rặng dừa rủ bóng xanh mát. Cây dừa không chỉ làm đẹp cho cảnh sắc làng quê mà nó còn có nhiều công dụng hữu ích cho con người.
Dừa là loại cây dễ trồng, nó có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau nhưng thích hợp nhất là đất pha cát và có khả năng chịu mặn tốt nên ở Việt Nam dừa được trồng nhiều nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Dừa được chia ra làm nhiều loại trong đó có hai loại phổ biến phải kể đến là dừa xiêm và dừa khô. Các giống dừa xiêm sẽ cho ra nước để uống còn các giống dừa khô sẽ dùng để lấy tinh dầu dừa nguyên chất. Ngoài ra còn có một số giống dừa đặc biệt khác như dừa sọc, dừa sáp, dừa dứa.
Mặc dù được chia ra nhiều giống khác biệt nhưng phần lớn cấu tạo của các cây dừa là giống nhau. Thân dừa mọc thẳng , không phân nhánh, cao tầm 20m đến 25m. Thân dừa là đặc điểm để đánh giá sự sinh trưởng của cây bởi thân dừa cao chỉ phát triển mạnh sau từ 4 đến 5 năm. Lá dừa xanh, dài, chia thành nhiều tàu rủ xuống giống như lá chuối nhưng chúng không liền một dải như chuối mà mỗi lá chia thành nhiều nhánh. Một cây dừa sẽ có khoảng 30 đến 35 tàu lá và vào thời kì trưởng thành mỗi tàu lá sẽ dài từ 5m-6m. Rễ dừa được sinh ra liên tục ở phần đáy gốc thân, không có rễ cọc. Rễ không có lông hút mà chỉ có rễ dinh dưỡng. Khi cây dừa 5 năm tuổi nó có 548 chiếc rễ và đến năm 13 tuổi chúng sẽ đạt số lượng lên tới 5200 rễ.
Hoa dừa có màu trắng và nhỏ, thuộc loại đơn tính, hoa đực và hoa cái riêng lẻ vì vậy hoa dừa được thụ phấn chủ yếu nhờ gió và côn trùng. Quả dừa được sinh ra từ hoa. Quả dừa tròn quây quanh thân dừa kết thành từng buồng. Mỗi buồng gồm từ 5 đến 10 trái. Vỏ dừa cứng, độ cứng của cùi và độ ngọt của nước dừa bên trong sẽ phụ thuộc vào độ “già” của trái dừa. Khi thu hoạch dừa người ta phải trèo lên cây dừa để vặn, xoay, cắt cho trái dừa rơi xuống đất hoặc có thể đứng dưới đất dùng sào tre để cắt trái dừa rụng xuống.
Cây dừa đã dốc hết sức lực của mình để phục vụ cho đời sống con người. Có thể nói chúng ta tận dụng được hết những bộ phận của dừa vì chúng vừa có giá trị kinh tế vừa có giá trị sử dụng. Thân dừa to khỏe được đục đẽo làm thành những chiếc xuồng giúp người dân miền Tây đi lại trong những ngày lũ lụt hay những ngày xuôi mái chèo qua rừng ngập mặn. Gỗ dừa còn dùng làm đồ mĩ nghệ tinh xảo. Lá dừa phơi khô có thể làm chất đốt trong gian bếp làng quê, làm mái che, đan làm giỏ đựng và ta cũng có thể dùng lá dừa sáng tạo ra chiếc chổi dừa độc đáo. Đến rễ dừa có thể tận dụng để làm thuốc nhuộm…
Và phần giá trị nhất có lẽ là quả dừa. Nước dừa có vị thanh ngọt dùng để giải khát trong những ngày nắng nóng thì không gì sánh được. Cùi dừa dùng để kho thịt, làm mứt hay kẹo dừa- những món ăn quen thuộc với người dân Việt. Xơ dừa được tách ra và được bện thành những sợi dây thừng vững chắc, nó cũng là một nguyên liệu cần thiết để sản xuất than củi. Dừa còn là một phương pháp làm đẹp hữu hiệu với chị em phụ nữ. Dầu dừa có công dụng làm đẹp da, chống nứt nẻ và dưỡng tóc óng mượt. Người xưa còn ca ngợi dầu dừa bằng câu ca dao:
“Không chồng, son phấn qua loa,Có chồng, em trang điểm nước hoa dầu dừa.”
Quả thật, cây dừa đã gắn bó với người dân Việt Nam từ bao đời nay. Dừa tỏa bóng mát làm dịu tâm hồn con người, dừa lại tạo giá trị kinh tế giúp con người kiếm thêm thu nhập. Cây dừa còn đi vào thơ ca, tạo nên một nét riêng giản dị đặc trưng của tâm hồn Việt. Vì thế dừa xứng đáng là một loài cây được yêu quý và trân trọng.