Nhận thức là một trong ba quá trình tâm lý cơ bản của con người: nhận thức, cảm xúc và ý chí. Nó là tiền đề của hai quá trình kia, đồng thời có quan hệ chặt chẽ với chúng và với các hiện tượng tâm lý khác.
Contents
1. Nhận thức là gì?
Quá trình nhận thức giúp cho chúng ta phản ánh bản thân các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan – những khách thể tác động vào con người trong quá trình hoạt động của họ. Nhờ nhận thức mà con người có xúc cảm, tình cảm, đặt ra được mục đích và dựa vào đó mà hành động. Như vậy, quá trình nhận thức xuất phát từ hành động, làm tiền đề cho các quá trình tâm lý khác. Đồng thời tính chân thực của quá trình nhận thức cũng được kiểm nghiệm qua hành động: hành động có kết quả chứng tỏ chúng ta phản ánh đúng hành động, không có kết quả chứng tỏ ta phản ánh sai.
Nhờ quá trình nhận thức, chúng ta không chỉ phản ánh hiện thực xung quanh ta, mà cả hiện thực của bản thân ta nữa, không chỉ phản ánh cái bên ngoài mà cả cái bản chất bên trong, không chỉ phản ánh cái hiện tại mà cả cái đã qua và cả cái sẽ tới, cái quy luật phát triển của hiện thực nữa. Như thế có nghĩa là quá trình nhận thức bao gồm nhiều quá trình khác nhau, ở những mức độ phản ánh khác nhau: cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng. Những quá trình này sẽ cho chúng ta những sản phẩm khác nhau, còn gọi là những cấu tạo tâm lý khác nhau (hình tượng, biểu tượng, khái niệm). Đại thể có thể chia toàn bộ hoạt động nhận thức thành 2 giai đoạn lớn: nhận thức cảm tính (gồm cảm giác và tri giác) và nhận thức lý tính. Trong hoạt động nhận thức của con người, giai đoạn cảm tính và lý tính có quan hệ chặt chẽ và tác động tương hỗ lẫn nhau. V.I.Lênin đã tổng kết quy luật đó của hoạt động nhận thức nói chung như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – Đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.
Chúng ta hãy lần lượt nghiên cứu các quá trình nhận thức riêng (trong thực tế chúng đan kết vào nhau) từ thấp đến cao.
2. Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính là mức độ nhận thức đầu tiên của con người, trong đó chúng ta chỉ phản ánh được những đặc điểm bên ngoài của những sự vật, hiện tượng riêng lẻ khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của ta. Nhận thức cảm tính là nhận thức bằng các giác quan và một cách trực tiếp. Nhận thức cảm tính chưa cho ta biết được bản chất, quy luật, những thuộc tính bên trong của các sự vật và hiện tượng, vì vậy mà nó phản ánh còn hời hợt, chưa sâu sắc và còn sai lầm. Nhận thức cảm tính có 2 quá trình cơ bản, đó là cảm giác và tri giác:
a. Cảm giác
Nếu nghiên cứu sự phát triển của hoạt động nhận thức trong quá trình tiến hóa của thế giới (phát triển chủng loại) và ở một đứa trẻ (phát triển cá thể), chúng ta có thể thấy rằng cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của cơ thể trong thế giới xung quanh. Có những con vật chỉ phản ánh được những thuộc tính riêng lẻ có ý nghĩa sinh học trực tiếp của các sự vật và hiện tượng. Ở trẻ con, trong những tuần lễ đầu, cũng như vậy. Điều đó nói lên rằng: cảm giác là hình thức khởi đầu trong sự phát triển của hoạt động nhận thức.
Cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.
Như vậy, có thể thấy ở cảm giác mấy đặc điểm sau:
- Nó là quá trình tâm lý (chứ không phải là trạng thái hay thuộc tính).
- Phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng (chứ không phản ánh được sự vật, hiện tượng một cách trọn vẹn).
- Phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trực tiếp (khi sự vật, hiện tượng đang tác động vào giác quan ta).
Tuy là hình thức phản ánh thấp nhất, nhưng cảm giác giữ vai trò khá quan trọng trong đời sống của con người.
Cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của con người (và con vật), và là nguồn cung cấp những nguyên liệu để con người tiến hành những hình thức nhận thức cao hơn. V.I.Lênin đã từng nói: “Ngoài sự thông qua cảm giác ra, chúng ta không thể nào nhận thức được bất cứ một hình thức nào của vật chất, cũng như bất cứ một hình thức nào của vận động”, “Tiền đồ đầu tiên của lý luận về nhận thức chắc chắn là nói rằng cảm giác là cái nguồn gốc duy nhất của hiểu biết”.
Đặc biệt, đối với những người bị khuyết tật (câm, mù, điếc) thì cảm giác, nhất là xúc giác, là con đường nhận thức quan trọng đối với họ.
Ngoài vai trò về mặt nhận thức trên đây, cảm giác còn là điều kiện quan trọng để bảo đảm trạng thái hoạt động của vỏ não, do đó bảo đảm hoạt động tinh thần bình thường của con người.
Có nhiều cách phân loại cảm giác, tuỳ thuộc dựa vào các tiêu chí. Người ta thường phân cảm giác thành 2 loại cơ bản: cảm giác bên ngoài và cảm giác bên trong (dựa vào vị trí của nguồn kích thích gây nên cảm giác)
– Các cảm giác bên ngoài:
+ Cảm giác nhìn (thị giác): nảy sinh do tác động của các sóng ánh sáng phát ra từ các sự vật. Cảm giác nhìn cho biết hình thù, khối lượng, độ sáng, độ xa, màu sắc của sự vật.
+ Cảm giác nghe (thính giác): do những sóng âm, tức là những dao động của không khí gây nên. Cảm giác nghe phản ánh những thuộc tính của âm thanh, tiếng nói: cao độ (tần số dao động), cường độ (biên độ dao động) và âm sắc (hình thức dao động).
+ Cảm giác ngửi (khứu giác): do các phân tử của các chất bay hơi tác động lên màng ngoài của khoang mũi cùng không khí gây nên.
+ Cảm giác nếm (vị giác): do tác động của các thuộc tính hoá học của các chất hoà tan trong nước lên các cơ quan thụ cảm vị giác ở lưỡi, họng và vòm họng tạo nên. Cảm giác nếm như: ngọt, mặn, chua, cay, đắng,…
+ Cảm giác da (mạc giác): do những kích thích cơ học và nhiệt độ tác động lên da tạo nên. Cảm giác da gồm 5 loại: đụng chạm, nén, nóng, lạnh, đau.
– Các cảm giác bên trong:
+ Cảm giác vận động và cảm giác sờ mó:
. Cảm giác vận động là cảm giác phản ánh những biến đổi xảy ra trong các cơ quan vận động, báo hiệu về mức độ co của cơ và về vị trí của các phần của cơ thể.
. Sự kết hợp giữa cảm giác vận động và cảm giác đụng chạm tạo thành cảm giác sờ mó.
+ Cảm giác thăng bằng: là phản ánh vị trí và những chuyển động của đầu. Cơ quan của cảm giác thăng bằng nằm ở tai trong liên quan chặt chẽ với dây thần kinh số 11 (dây thần kinh phế vị).
+ Cảm giác rung: do các dao động của không khí tác động lên bề mặt thân thể tạo nên.
+ Cảm giác cơ thể: phản ánh tình trạng hoạt động của các cơ quan nội tạng, bao gồm cả cảm giác đói, no, buồn nôn, đau ở các cơ quan bên trong con người.
Cảm giác ở con người diễn ra theo những quy luật nhất định. Việc hiểu biết và tính đến các quy luật cảm giác trong đời sống và công tác hàng ngày là cần thiết và hữu ích.
– Quy luật về ngưỡng cảm giác: Muốn có cảm giác thì phải có sự kích thích vào giác quan. Nhưng không phải mọi sự kích thích vào giác quan đều gây cảm giác. Kích thích yếu quá không gây nên cảm giác. Kích thích mạnh quá cũng dẫn đến mất cảm giác. Vậy muốn kích thích gây ra được cảm giác, thì kích thích phải đạt tới một giới hạn nhất định, giới hạn mà ở đó kích thích gây ra được cảm giác thì gọi là ngưỡng cảm giác. Có 2 loại ngưỡng cảm giác: ngưỡng phía dưới và ngưỡng phía trên. Ngưỡng cảm giác phía dưới là cường độ tối thiểu đủ để gây được cảm giác. Ngưỡng cảm giác phía trên là cường độ kích thích tối đa mà ở đó vẫn còn gây được cảm giác.
Ví dụ: ngưỡng phía dưới của cảm giác nhìn ở người là những sóng ánh sáng có bước sóng là 390 milimicron và ngưỡng phía trên là 780 milimicron. Trong phạm vi giữa ngưỡng phía dưới và ngưỡng phía trên của mỗi loại cảm giác đều có một vùng phản ánh tốt nhất. Ví dụ: vùng phản ánh tốt nhất của ánh sáng đối với mắt là những sóng ánh sáng có bước sóng là 565 milimicron, của âm thanh đối với tai là 1000 hec.
Cảm giác còn phản ánh cả sự khác nhau giữa các kích thích. Nhưng không phải mọi sự khác nhau nào của các kích thích cũng đều được phản ánh cả. Cần phải có một tỷ số chênh lệch tối thiểu về cường độ hoặc một mức độ khác biệt tối thiểu về tính chất thì ta mới cảm thấy có sự khác nhau. Mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hoặc tính chất của hai kích thích đủ để ta phân biệt được hai kích thích được gọi là ngưỡng sai biệt. Ngưỡng sai biệt của từng cảm giác là một hằng số.
Ngưỡng cảm giác phía dưới (còn gọi là ngưỡng tuyệt đối) và ngưỡng sai biệt có quan hệ tỷ lệ nghịch với độ nhạy cảm của cảm giác và với độ nhạy cảm sai biệt.
Ngưỡng phía dưới của cảm giác càng nhỏ, thì độ nhạy cảm của cảm giác càng cao; ngưỡng sai biệt càng nhỏ thì độ nhạy cảm sai biệt càng cao.
Ngưỡng tuyệt đối và ngưỡng sai biệt của cảm giác là khác nhau ở mỗi cảm giác khác nhau và ở mỗi người khác nhau.
– Quy luật về sự thích ứng của cảm giác: Để đảm bảo cho sự phản ánh được tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh khỏi bị hủy hoại, cảm giác của con người có khả năng thích ứng với kích thích.
Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với sự thay đổi cường độ của kích thích: khi cường độ kích thích tăng thì giảm độ nhạy cảm. Khi cường độ kích thích giảm thì tăng độ nhạy cảm.
Qui luật thích ứng có tất cả mọi cảm giác, nhưng mức độ thích ứng ở cảm giác không giống nhau. Có những cảm giác có khả năng thích ứng cao như thị giác (trong bóng tối tuyệt đối thì độ nhạy cảm với ánh sáng tăng tới gần 200.000 lần sau 40 phút), trong khi đó có những cảm giác có khả năng thích ứng rất kém, và hầu như không thích ứng, như cảm giác đau.
Khả năng thích ứng của cảm giác cơ thể được phát triển do hoạt động và rèn luyện (công nhân luyện kim có thể chịu đựng được nhiệt độ cao 500 – 600C trong hàng giờ, thợ lặn có thể chịu được áp suất 2 atm trong vài chục phút hay hàng giờ…)
– Quy luật tác động lẫn nhau giữa các cảm giác: Các cảm giác của con người không tồn tại một cách biệt lập, mà chúng tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động qua lại giữa các cảm giác là sự thay đổi tính nhạy cảm của một cảm giác này dưới ảnh hưởng của một cảm giác kia.
Cơ sở sinh lý của qui luật này là các mối liên hệ trên vỏ não của các cơ quan phân tích và qui luật cảm ứng đồng thời hoặc nối tiếp.
Sự tác động qua lại giữa các cảm giác diễn ra theo qui luật chung như sau: sự kích thích yếu lên một cơ quan phân tích này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích kia, sự kích thích mạnh một cơ quan phân tích này sẽ làm giảm độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích kia. Ví dụ: những cảm giác thị giác yếu (chua) sẽ làm tăng độ nhạy cảm thị giác.
Cần nói thêm rằng sự tác động giữa các cảm giác có thể diễn ra một cách đồng thời, hoặc nối tiếp, trên những cảm giác cùng loại, hoặc khác loại.
– Quy luật tương phản: Tương phản chính là hiện tượng tác động qua lại giữa những cảm giác cùng một loại. Đó là sự thay đổi cường độ và chất lượng của cảm giác dưới ảnh hưởng của một kích thích (cùng loại) xảy ra trước đó hay xảy ra đồng thời. Như vậy, có 2 loại tương phản: tương phản nối tiếp và tương phản đồng thời.
Cơ sở sinh lý của 2 loại tương phản này là qui luật cảm ứng đồng thời và nối tiếp của vỏ não.
Nếu ta đặt hai tờ giấy màu xám như nhau lên một cái nền trắng và một cái nền đen, thì ta sẽ cảm thấy tờ giấy màu xám đặt trên nền trắng xẫm hơn tờ giấy màu xám đặt trên nền đen – đó là sự tương phản đồng thời.
Sau một kích thích lạnh, thì một kích thích hơi nóng hơn – đó là sự tương phản nối tiếp.
– Quy luật chuyển cảm giác (hay loạn cảm giác): Hiện tượng chuyển cảm giác là hiện tượng mà khi kích thích một cảm giác này thì lại gây ra một cảm giác khác.
Trong tiếng nói của dân tộc nào cũng thường gặp những từ chỉ hiện tượng đó – “giọng chua như dấm”, “giọng êm như nhung”, “giọng ngọt lịm”…
Hãy thử làm thí nghiệm sau đây: bạn hãy lấy 2 thanh nứa (hay 2 miếng thủy tinh) cọ sát vào nhau, bạn sẽ cảm thấy “ghê người” – như vậy kích thích thính giác đã gây ra cảm giác cơ thể.
Có thể xem quy luật này như là một trường hợp đặc biệt của sự tác động qua lại giữa các cảm giác, mà nó được biểu hiện không phải ở sự thay đổi độ nhạy cảm, mà là ở sự thay đổi thể loại cảm giác.
Quy luật này được thể hiện một cách khác nhau ở từng người khác nhau: ở người này dễ dàng thấy có hiện tượng chuyển cảm giác, ở người kia hầu như không bao giờ thấy.
Những quy luật trên đây nói lên tính cơ động cao của cảm giác, sự phụ thuộc của nó vào cường độ của kích thích, vào trạng thái chức năng của cơ quan phân tích do sự bắt đầu hay ngừng tác động của kích thích, cũng như do kết quả tác động đồng thời của một số kích thích lên cùng một giác quan hay một số giác quan gây nên.
b. Tri giác
Nhờ có những cảm giác, mà các thuộc tính riêng lẻ của sự vật (màu sắc, âm thanh, độ cứng…) được phản ánh trên vỏ não. Nhưng các sự vật và hiện tượng trong hiện thực xung quanh chúng ta lại mang một phức hợp hoàn chỉnh các phẩm chất và thuộc tính khác nhau. Để phản ánh đúng đắn các sự vật, hiện tượng đó, các cảm giác riêng lẻ, do sự hoạt động của các cơ quan phân tích đem lại, được tổng hợp lại trong vỏ não và đem lại cho con người một hình ảnh trọn vẹn, hoàn chỉnh về các sự vật, hiện tượng.
Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan ta.
Khác với cảm giác, tri giác không phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng, mà phản ánh sự vật nói chung, sự vật trong tổng hòa các thuộc tính của nó. Nhưng như thế không có nghĩa tri giác là tổng số các cảm giác riêng lẻ, mà là một mức độ mới của nhận thức cảm tính, với những đặc điểm nhất định của nó: tính trọn vẹn, tính đối tượng, tính kết cấu, tính tích cực.
Có 2 cách thông thường được dùng để phân loại tri giác.
- Phân loại theo phân tích quan giữ vai trò chủ chốt trong số các phân tích quan tham gia vào quá trình tri giác.
- Phân loại theo các hình thức tồn tại của vật chất.
Theo cách thứ nhất, ta có các loại tri giác sau: tri giác nhìn, tri giác nghe, tri giác sờ mó…
Theo cách thứ hai, ta có các loại: tri giác không gian, tri giác thời gian, tri giác vận động.
+ Tri giác không gian: là sự phản ánh khoảng không gian tồn tại khách quan (hình dáng, độ lớn, vị trí các vật với nhau…).
+ Tri giác thời gian: là sự phản ánh độ dài lâu, tốc độ và tính kế tục khách quan của các hiện tượng trong hiện thực.
+ Tri giác vận động: là sự phản ánh những biến đổi về vị trí của các sự vật trong không gian. + Tri giác con người: là quá trình nhận thức lẫn nhau giữa con người trong những điều kiện giao lưu trực tiếp. Đây là loại tri giác đặc biệt vì đối tượng của tri giác cũng là con người.
Quá trình tri giác ở con người có những quy luật sau đây:
– Tính lựa chọn của tri giác: Các sự vật, hiện tượng tác động vào con người đa dạng đến mức con người không thể tri giác và phản ứng với tất cả những kích thích đó một cách đồng thời được. Chúng ta chỉ tách ra một cách rõ ràng và tự giác từ trong vô số những tác động đó một vài tác động mà thôi. Đặc điểm này nói lên tính lựa chọn của tri giác. Trong tính lựa chọn chứa đựng tính tích cực của quá trình tri giác: tri giác là quá trình tách đối tượng ra khỏi bối cảnh. Khi ta tri giác một vật nào đó tức là ta tách sự vật đó (đối tượng của tri giác) ra khỏi các sự vật xung quanh (bối cảnh). Vì vậy, những sự vật (hay thuộc tính của sự vật) nào càng phân biệt với bối cảnh thì càng được ta tri giác dễ dàng, đầy đủ. Sự lựa chọn trong tri giác không có tính chất cố định, vai trò của đối tượng và bối cảnh có thể giao hoán cho nhau: khi ta tri giác vật này thì các vật khác còn lại trở thành bối cảnh, khi ta chuyển sang tri giác vật khác, thì vật vừa là đối tượng tri giác trước đây lại trở thành bối cảnh
Tính lựa chọn của tri giác phụ thuộc vào hứng thú, tâm thế, nhu cầu của cá nhân. Quan hệ, thái độ của con người đối với cái được tri giác sẽ quyết định sự tổ chức và diễn biến của quá trình tri giác. Trong việc lựa chọn này, ngôn ngữ có tác dụng rất quan trọng.
Quy luật về tính lựa chọn của tri giác có nhiều ứng dụng trong thực tế: khi muốn làm cho đối tượng tri giác được phản ánh tốt nhất, người ta tìm cách làm cho đối tượng phân biệt hẳn với bối cảnh (dùng phấn trắng trên bảng đen, gạch bằng mực đỏ dưới những từ cần nhấn mạnh…); khi ta làm cho sự tri giác đối tượng trở nên khó khăn thì người ta lại tìm cách làm cho đối tượng hòa lẫn vào bối cảnh (ngụy trang).
– Tính có ý nghĩa của tri giác: Mặc dù tri giác nảy sinh do sự tác động trực tiếp của vật kích thích vào cơ quan nhận cảm, nhưng những hình ảnh tri giác luôn luôn có một ý nghĩa xác định. Tri giác ở con người được gắn chặt với tư duy, với sự hiểu biết về bản chất của sự vật. Tri giác sự vật một cách có ý thức – điều đó có nghĩa là gọi được tên của sự vật đó ở trong óc, và có nghĩa là xếp được sự vật đang tri giác vào một nhóm, một lớp các sự vật xác định, khái quát nó trong một từ ngữ nhất định. Ngay cả khi tri giác một vật không quen thuộc chúng ta cũng cố thu nhận trong nó một sự giống nhau nào đó với những đối tượng mà mình đã biết, xếp nó vào một phạm trù nào đó. Sự tri giác không phải do một “bộ” kích thích giản đơn, cùng tác động vào cơ quan cảm giác, qui định, mà nó đòi hỏi một sự tìm kiếm cơ động cách tổng hợp những tài liệu đã có. Những bức tranh hai nghĩa đã chỉ rõ điều đó. Trong những bức tranh đó, việc tách đối tượng của tri giác được gắn liền với việc hiểu được ý nghĩa và tên gọi của nó.
– Tính ổn định của tri giác: Sự vật xung quanh ta nằm ở nhiều vị trí khác nhau đối với chủ thể tri giác và những điều kiện xuất hiện của chúng (độ chiếu sáng, vị trí trong không gian, khoảng cách của người quan sát) cũng rất đa dạng. Vì vậy, bộ mặt của nó luôn luôn thay đổi, xoay chuyển theo những hướng khác Trong tình hình đó, các quá trình tri giác của con người cũng được thay đổi một cách tương ứng. Nhưng nhờ tính ổn định, thể hiện ở khả năng bù trừ của hệ thống tri giác (tức là toàn bộ những cơ quan phân tích tham gia vào một hành động tri giác nào đó) đối với những biến đổi đó mà chúng ta vẫn tri giác các sự vật xung quanh như là những sự vật ổn định về hình dáng, kích thước, màu sắc…
Tính ổn định của tri giác là khả năng phản ánh sự vật một cách không thay đổi khi điều kiện tri giác bị thay đổi. Ví dụ: trước mặt ta là một cháu bé, đằng xa sau nó là một ông cụ. Trên võng mạc của ta, hình ảnh của đứa bé lớn hơn hình ảnh của ông cụ. Nhưng ta vẫn tri giác ông cụ lớn hơn đứa trẻ. Tính ổn định của tri giác có thể thấy cả về màu sắc và hình dáng của sự vật.
– Tổng giác: Ngoài những kích thích gây ra nó, tri giác còn bị quy định bởi một loạt các nhân tố nằm trong bản thân chủ thể tri giác. Không phải con mắt tách rời, không phải bản thân cái tự nó tri giác, mà là một con người cụ thể sống động tri giác. Bởi vậy, những đặc điểm nhân cách của người tri giác, thái độ của họ đối với cái được tri giác, nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng, sở thích và tình cảm của họ luôn luôn được thể hiện ở mức độ nhất định trong sự tri giác của họ. Sự phụ thuộc của tri giác vào nội dung của đời sống tâm lý con người, vào đặc điểm nhân cách của họ, được gọi là hiện tượng tổng giác.
– Ảo ảnh tri giác: Ảo ảnh tri giác là sự phản ánh sai lệch các sự vật hiện tượng
một cách khách quan của con người.
Đây là một hiện tượng có qui luật, xảy ra ở tất cả mọi người bình thường. Cần phải phân biệt với hiện tượng ảo giác, là một hiện tượng bệnh lý, không bình thường.
3. Nhận thức lý tính
Là giai đoạn nhận thức cao hơn so với nhận thức cảm tính, nó cho ta biết cái bên trong, cái bản chất, cái quy luật của sự vật và hiện tượng. Nhận thức lý tính bao gồm hai quá trình là tư duy và tưởng tượng.
a. Tư duy
Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong, có tính chất qui luật của sự vật và hiện tượng trong hiện thực khách quan, mà trước đó ta chưa biết.
Tư duy là một mức độ nhận thức mới về chất so với cảm giác, tri giác. Nếu cảm giác, tri giác chỉ phản ánh những thuộc tính bên ngoài, những mối quan hệ ngoài của sự vật và hiện tượng, thì tư duy phản ánh những thuộc tính bên trong, bản chất, những quan hệ có tính qui luật của sự vật và hiện tượng.
Tư duy, với tư cách là một mức độ cao của hoạt động nhận thức (nhận thức lý tính), có những đặc điểm cơ bản sau đây:
– Tính “có vấn đề” của tư duy:
Không phải bất cứ tác động nào của hoàn cảnh cũng đều gây ra tư duy. Bình thường mà nói, người ta không phải lúc nào cũng chịu tư duy, vì quả thật tư duy mệt óc và tốn nhiều năng lượng. Trên thực tế, tư duy chỉ nảy sinh khi gặp những hoàn cảnh, những tình huống mà vốn hiểu biết cũ, con người không đủ để giải quyết, để nhận thức, con người phải vượt qua những hiểu biết cũ đi tìm cái mới. Những tình huống, hoàn cảnh có tính chất như vậy gọi là tình huống có vấn đề.
Không phải tình huống có vấn đề nào cũng kích thích được hoạt động tư duy. Muốn làm nảy sinh quá trình tư duy thì tình huống có vấn đề đó phải được chủ thể nhận thức được một cách đầy đủ, được chuyển thành nhiệm vụ tư duy của chủ thể, nghĩa là xác định cái gì đã biết, cái gì đã cho và cái gì chưa biết cần phải tìm và có nhu cầu tìm kiếm nó. Dĩ nhiên những dữ kiện đó nằm ngoài phạm vi hiểu biết của chủ thể thì tư duy cũng không xuất hiện.
– Tính gián tiếp của tư duy: Khác với nhận thức cảm tính là phản ánh thế giới một cách trực tiếp, tư duy có khả năng nhận thức một cách gián tiếp nhờ ngôn ngữ. Thông qua ngôn ngữ con người sử dụng vốn kinh nghiệm, những phát minh, kết quả tư duy của người khác để thực hiện quá trình tư duy. Dựa trên những quy luật về giữa các mối liên hệ giữa các hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên mà con người có thể hiểu biết được, khám phá được những hiện tượng xảy ra trên mặt trăng, mặt trời mà chúng ta không thể trực tiếp nghiên cứu được, dựa vào một vài hoá thạch nhà khảo cổ biết được sự sống trên trái đất hàng vạn năm về trước.
Trên cơ sở nắm được các quy luật của thế giới mà con người đã sáng tạo ra nhiều công cụ từ đơn giản đến phức tạp (như nhiệt kế, vôn kế, ampe kế…) giúp cho con người nhận thức hiện thực một cách gián tiếp.
Nhờ sự phản ánh gián tiếp, tư duy giúp con người nhận thức được sâu sắc về thế giới xung quanh, mở rộng khả năng hiểu biết của con người đến vô tận.
– Tính trừu tượng và khái quát của tư duy: Khác với nhận thức cảm tính, tư duy không phản ánh sự vật, hiện tượng một cách cụ thể và cá lẻ. Tư duy có khả năng trừu xuất khỏi sự vật, hiện tượng những thuộc tính, những dấu hiệu cụ thể, cá biệt, chỉ giữ lại những thuộc tính bản chất nhất, chung cho nhiều sự vật và hiện tượng riêng lẻ khác nhau, nhưng có chung những thuộc tính bản chất thành một nhóm, một loại hay một phạm trù. Nói cách khác, tư duy mang tính chất trừu tượng và khái quát. Ví dụ khi nghĩ tới “cái bảng” là cái bảng nói chung, chứ không chỉ một cái bảng cá lẻ, cụ thể nào cả.
Tính trừu tượng và khái quát của tư duy cho phép con người không chỉ giải quyết những nhiệm vụ hiện tại, mà còn nhìn xa vào tương lai nữa, nghĩa là giải quyết ở trong đầu những nhiệm vụ đề ra cho họ sau này. Ví dụ: do nắm được qui luật đàn hồi của kim loại dưới tác động của nhiệt, người kỹ sư đã thiết kế những khoảng cách nhỏ giữa các đoạn đường này.
Nhớ có tính khái quát của tư duy mà trong khi giải quyết một nhiệm vụ cụ thể nào đó, con người không xem nó như là một cái gì hoàn toàn khác thường, mà có thể xem nó vào một phạm trù, một nhóm nhất định, có thể lựa chọn những khái niệm, những quy tắc, phương pháp tương ứng cần sử dụng trong trường hợp ấy.
– Tư duy quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ: Sở dĩ tư duy ở người có những đặc điểm trên đây (tính có vấn đề, tính gián tiếp, tính trừu tượng và khái quát) là vì tư duy của con người gắn liền với ngôn ngữ. Mối quan hệ này cho đến nay vẫn còn được các trường phái, các xu hướng tâm lý học khác nhau xem xét một cách khác nhau.
Những người theo xu hướng duy tâm thì cho rằng tư duy không phụ thuộc vào ngôn ngữ, mà ngôn ngữ cũng chẳng phụ thuộc vào tư duy. Họ lập luận rằng chính vì vậy nên con người mới suy nghĩ thầm được, đồng thời lại có thể suy nghĩ về người khác trong khi nói chuyện với một người thứ hai; hoặc một ý nghĩ có thể được biểu hiện bằng nhiều thứ tiếng khác nhau… nghĩa là tư duy và ngôn ngữ có thể cùng tồn tại mà không hề phụ thuộc vào nhau.
Những người theo xu hướng hành vi chủ nghĩa lại ngược hẳn lại, cho rằng tư duy và ngôn ngữ là một, chúng đồng nhất với nhau.
Cả 2 quan điểm trên đều sai, đều là phản biện chứng trong việc xem xét mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ.
Quan điểm duy vật biện chứng xem tư duy có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ, chúng thống nhất với nhau, nhưng không đồng nhất, cũng không tách rời nhau được: tư duy không thể tồn tại ngoài ngôn ngữ được, ngược lại ngôn ngữ cũng không thể có nếu không dựa vào tư duy. Quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Thật vậy, nếu không có ngôn ngữ (với công cụ là từ ngữ) thì các sản phẩm của tư duy sẽ không được chủ thể và người khác tiếp nhận, cũng như chính bản thân quá trình tư duy cũng không diễn ra được. Ngược lại, nếu không có tư duy (với những sản phẩm của nó) thì ngôn ngữ chỉ là những chuỗi âm thanh vô nghĩa, không có nội dung, chẳng khác nào những tín hiệu âm thanh trong giới động vật.
Nhưng tư duy không phải là ngôn ngữ, vì 3 lý do sau đây: tư duy và ngôn ngữ là những quá trình tâm lý có chức năng khác nhau, chúng cho những sản phẩm khác nhau và tuân theo những quy luật khác nhau.
– Tư duy quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính: Tư duy là mức độ nhận thức cao hơn hẳn so với nhận thức cảm tính, nhưng tư duy không tách rời khỏi nhận thức cảm tính. Dù tư duy có trừu tượng, khái quát đến mấy cũng phải dựa vào các tài liệu trực quan mà cảm giác và tri giác đưa lại. Hơn nữa, muốn tư duy được trước hết phải tri giác được hoàn cảnh có vấn đề, tri giác được các dữ kiện. Như vậy, tri giác là một khâu, là thành phần của quá trình tư duy. Kết quả của qua trình tư duy đòi hỏi phải được kiểm tra bằng thực tiễn thông qua các quá trình nhận thức cảm tính. Tư duy cũng ảnh hưởng đến hoạt động nhận thức cảm tính. Nhờ có tư duy mà chúng ta tri giác được nhanh hơn, chính xác hơn. Tư duy ảnh hưởng đến tính lựa chọn, tính có ý nghĩa của tri giác.
b. Tưởng tượng
Tư duy là một hoạt động nhận thức cao cấp, nó giúp cho con người giải quyết những nhiệm vụ, những vấn đề do thực tiễn đề ra. Tư duy chỉ nảy sinh khi con người bị đặt trước một hoàn cảnh có vấn đề. Tư duy phản ánh cái mới mà con người chưa biết.
Tuy nhiên, không phải trong bất cứ trường hợp nào thì các nhiệm vụ, vấn đề của thực tiễn đề ra đều được giải quyết bằng tư duy cả. Có nhiều trường hợp, khi đứng trước một hoàn cảnh có vấn đề con người không thể dùng tư duy để giải quyết vấn đề, mà phải dùng một quá trình nhận thức cao cấp khác, gọi là tưởng tượng.
Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có.
Tưởng tượng cần thiết cho bất kỳ một loại hoạt động nào của con người. Sự
khác nhau căn bản giữa lao động của con người với hành vi bản năng của con vật chính là ở cái biểu tượng về kết quả mong đợi do tưởng tượng tạo nên. Ý nghĩa quan trọng nhất của tưởng tượng là nó cho phép ta hình dung được kết quả của lao động trước khi bắt đầu lao động, hình dung được không phải chỉ cái kết quả cuối cùng, mà cả những kết quả trung gian của lao động nữa. Cho nên, tưởng tượng giúp con người định hướng trong quá trình hoạt động bằng cách tạo ra một mô hình tâm lý về những sản phẩm cuối cùng hoặc trung gian của lao động, điều đó hỗ trợ cho sự thể hiện thành hiện vật của những sản phẩm đó. Chính vì vậy, V.I.Lênin đã viết: “Thật là sai lầm nếu nghĩ rằng chỉ có nhà thơ mới cần tưởng tượng. Đó là một định kiến ngu xuẩn! Ngay cả trong toán học cũng cần có tưởng tượng, không có nó thì không thể tìm ra phép tính vi phân và tích phân được. Tưởng tượng là một phẩm chất vô cùng quí báu”.
Thật vậy, tưởng tượng cần thiết đối với nhà khoa học trong việc xây dựng giả thuyết, đề ra giả thuyết về nguyên nhân của các hiện tượng, dự kiến các biến cố… Nhà văn phải tạo ra trong trí tưởng tượng của mình hình ảnh các nhân vật để sau đó đưa vào các tác phẩm văn học; nhà họa sĩ phải nhìn thấy bức tranh mình định vẽ ở trong đầu trước đã. Khi chuẩn bị bài giảng, người thầy giáo phải hình dung trước tiến trình của bài giảng, phải dự kiến phản ứng có thể có của học sinh, những câu hỏi và câu trả lời của các em… Khi tiến hành công tác giáo dục, nhà giáo dục phải tạo ra trong đầu cái hình ảnh của con người mà mình muốn giáo dục ở học sinh, với tất cả các phẩm chất tâm lý xác định của con người ấy.
Nếu không có sự phát triển đầy đủ của tưởng tượng, thì học sinh không thể học tập có kết quả được. Khi đọc hay kể lại một tác phẩm văn học, học sinh phải hình dung đúng được ở trong đầu về cái mà tác giả nói đến. Học địa lý, học sinh phải gợi lên trong trí tưởng tượng của mình cảnh tượng của cái thiên nhiên mà mình chưa hề biết. Đôi khi, học sinh không thể lĩnh hội được tài liệu học tập chỉ vì các em không thể hình dung được cái mà thầy giáo nói đến hoặc được viết ở trong sách giáo khoa. Trong việc tập làm văn của học sinh, tưởng tượng giữ vai trò rất quan trọng, đặc biệt với những chủ đề tự do.
Tưởng tượng có 2 đặc điểm đặc trưng là tính tích cực và tính hiệu lực. Căn cứ vào hai dấu hiệu đó, người ta phân loại tưởng tượng.
– Tưởng tượng tiêu cực và tích cực, tái tạo và sáng tạo.
Như trên đã nói, tưởng tượng là một điều kiện của hoạt động sáng tạo cá nhân, hướng vào sự cải tổ thế giới xung quanh. Nhưng trong một số hoàn cảnh nhất định, nó có thể xuất hiện như là một vật thay thế cho hoạt động. Trong trường hợp đó, con người tạm thời “biến thân” sâu vào địa hạt của những biểu tượng hoang đường, xa rời thực tế để núp vào đó mà trốn tránh những nhiệm vụ không giải quyết được, những điều kiện nặng nề của đời sống, những hậu quả của những sai lầm của mình… Ở đây, tưởng tượng tạo ra những hình ảnh không được thể hiện trong đời sống, vạch ra những chương trình hành vi không được thực hiện và luôn luôn không thể thực hiện được. Nó là loại tưởng tượng tiêu cực.
Tưởng tượng tiêu cực có thể xảy ra một cách có chủ định, nhưng không gắn
liền với ý chí thể hiện những hình ảnh tưởng tượng đó ở trong đời sống, đó là loại tưởng tượng tiêu cực gọi là mơ mộng. Mơ mộng về cái gì đó vui sướng, dễ chịu, hấp dẫn là một hiện tượng vốn có ở mọi người. Trong những hình ảnh mơ mộng dễ dàng phát hiện được mối liên hệ của các sản phẩm tưởng tượng với những nhu cầu của cá nhân. Nhưng nếu tưởng tượng ở con người chủ yếu chỉ là mơ mộng, thì đó lại là một thiếu sót của sự phát triển nhân cách, nó nói lên tính tiêu cực của nhân cách đó. Nếu con người ươn hèn, không tranh đấu cho một tương lai tốt đẹp hơn, mà cuộc sống hiện tại lại khó khăn, sầu thảm, thì họ thường tạo ra cho mình một cuộc sống hão huyền, tưởng tượng, trong đó mọi nhu cầu của họ đều được thỏa mãn hoàn toàn, ở đó, họ giữ cái vị trí mà trong hiện tại họ không thể nào hy vọng có được.
Tưởng tượng tiêu cực cũng có thể nảy sinh một cách không chủ định. Chủ yếu điều này xảy ra khi hoạt động của ý thức, của hệ thống tín hiệu thứ hai bị suy yếu, khi con người ở tình trạng không hoạt động, trong giấc ngủ (chiêm bao), trong trạng thái nửa thức nửa ngủ, trong trạng thái xúc động, trong những rối loạn bệnh lý của ý thức (ảo giác)…
Khi tưởng tượng tạo ra những hình ảnh nhằm đáp ứng những nhu cầu kích thích tính tích cực thực tế của con người, thì gọi là tưởng tượng tích cực.
Tưởng tượng tích cực gồm hai loại: tái tạo và sáng tạo.
Khi tưởng tượng tạo ra những hình ảnh chỉ là mới với cá nhân người tưởng tượng, và dựa trên cơ sở của một sự mô tả của người khác, thì gọi là tưởng tượng tái tạo. Ví dụ tưởng tượng của học sinh về những điều được mô tả trong sách giáo khoa địa lý, sử học, văn học…
Tưởng tượng sáng tạo là quá trình xây dựng hình ảnh mới một cách độc lập, những hình ảnh này là mới với cá nhân, lẫn xã hội, chúng được thực hiện trong các sản phẩm vật chất độc đáo và có giá trị. Nảy sinh trong lao động, tưởng tượng sáng tạo là một mặt không thể thiếu được của mọi sự sáng tạo: sáng tạo kỹ thuật, sáng tạo nghệ thuật…
– Ước mơ, lý tưởng là một loại tưởng tượng đặc biệt được hướng về tương lai, nó biểu hiện những ước ao, mong muốn của con người. Ước mơ có điểm giống với tưởng tượng sáng tạo ở chỗ nó cũng là một quá trình tạo ra những hình ảnh mới một cách độc lập. Nhưng nó khác ở chỗ: ước mơ không hướng trực tiếp vào hoạt động trong hiện tại. Xét về mặt ý nghĩa thì có 2 loại ước mơ có lợi và ước mơ có hại. Ước mơ chỉ có lợi khi nó thúc đẩy cá nhân vươn lên, biến ước mơ thành hiện thực. Còn khi ước mơ không dựa trên cơ sở của những khả năng thực tế, thì nó trở thành hiện thực được, do đó nó có thể làm cho cá nhân thất vọng, chán nản. Tất nhiên, ngoài ý nghĩa của ước mơ đối với cá nhân, ta còn phải tính đến ý nghĩa xã hội của nó. Lý tưởng có tính tích cực và hiện thực cao hơn ước mơ. Lý tưởng là hình ảnh chói lọi, rực sáng, cụ thể của cái tương lai mong muốn. Nó là một động cơ mạnh mẽ thúc đẩy chúng ta vươn lên giành lấy tương lai.
Xem thêm: Trí nhớ – kết quả của quá trình nhận thức