Contents
6. Đóng góp của luận văn
3.2.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ nghệ thuật là một thuật ngữ dùng để chỉ các phương tiện được sử dụng trong một ngành nghệ thuật, một sáng tác nghệ thuật. Chúng ta đều biết rằng, mỗi loại hình nghệ thuật đều có một ngôn ngữ nghệ thuật làm phương tiện để thể hiện riêng. Người ta có thể nói ngôn ngữ âm nhạc, ngôn ngữ điện ảnh, ngôn ngữ ba lê, ngôn ngữ điêu khắc…, ngôn ngữ văn học. Ngôn ngữ nghệ thuật chính là “một hệ thống các phương thức, phương tiện tạo hình, biểu diễn, hệ thống quy tắc thông báo bằng tín hiệu thẩm mỹ của một ngành, một sáng tác nghệ thuật” [54,185].
Thực tế cho thấy mỗi loại hình nghệ thuật có một đặc điểm riêng và phương tiện sáng tác riêng. Nếu âm thanh là phương tiện sáng tác trong âm
97
nhạc; màu sắc và đường nét là phương tiện sáng tác trong hội họa, thì ngôn ngữ nghệ thuật được xem là phương tiện sáng tác tác phẩm văn học. Phương tiện này có những đặc sắc riêng. Với tài năng sáng tạo, nhà văn hướng sự chú ý cấu trúc văn bản, tìm mọi cách cho hai mặt ngữ âm và ngữ nghĩa của ký hiệu ngôn ngữ hòa phối với nhau cùng phát huy tác dụng đối với cấu trúc hoàn chỉnh của tác phẩm văn chương.
Nhà văn M. Gorki đã khẳng định rằng “ngôn ngữ nghệ thuật là yếu tố thứ nhất của văn học”. Nó là công cụ giúp nhà văn xây dựng hình tượng, miêu tả đời sống của con người trong tác phẩm. Ngoài ra, ngôn ngữ nghệ thuật còn là công cụ tư duy, là phương tiện truyền đạt tư tưởng, tình cảm… của nhà văn qua mỗi hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm của mình. Thông qua ngôn ngữ văn học các nhà văn thể hiện tài năng của mình. Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ đặc biệt, hoàn toàn khác biệt với khẩu ngữ, và từ ngữ giao tiếp hằng ngày.
Theo Eagleton viết trong cuốn Nhập môn lý luận văn học: “văn học là một loại ngôn ngữ “đặc biệt”, đối lập với thứ ngôn ngữ “thực dụng” chúng ta thường dùng…” [6].
Tác giả Phương Lựu cũng đã cho rằng, ngôn từ văn học “là ngôn từ của một tác phẩm văn học, của thế giới nghệ thuật, kết quả sáng tạo của nhà văn. Đó là ngôn từ giàu tính hình tượng và giàu sức biểu hiện nhất, được tổ chức một cách đặc biệt để phán ánh đời sống, thể hiện tư tưởng, tình cảm và tác động thẩm mỹ tới người đọc” [54,185]. Cùng với Phương Lựu, Huỳnh Như Phương quan niệm: “ngôn từ trong tác phẩm văn học là kiểu lời nói nghệ thuật do nhà văn sáng tạo trên cơ sở sản phẩm ngôn ngữ của một xã hội mà ông ta đã tiếp thu được” [54,170].
Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật do nghệ sĩ sáng tạo theo quy luật chung của nghệ thuật, truyền đạt một ý nghĩa
98
mà “không một phát ngôn nào có thể thay thế được” (G. V. Xtapannôp. Ngôn
ngữ nghệ thuật có nhiệm vụ thể hiện tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Chức năng quan trọng nhất của ngôn ngữ nghệ thuật là chức năng thẩm mỹ. Chức năng này được xác định trong hệ thống các hình tượng tác phẩm và phong cách tác giả, bởi ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện tài năng của nhà văn.
Như vậy, ngôn từ muốn được hoàn thiện thành ngôn ngữ nghệ thuật phải nhờ khả năng lao động sáng tạo của nhà văn. Khác với ngôn ngữ toàn dân, ngôn ngữ văn học mang một dấu ấn mài sắc riêng nếu không tạo được điều đó nhà văn sẽ bị chìm khuất trong đám đông, trong lớp sóng xô bồ của chữ nghĩa. Ngôn từ nghệ thuật không chỉ là những từ mang giá trị tự thân mà còn là một đơn vị lời nói mang phẩm chất thẩm mỹ. Vì thế M. Gorki đã cho rằng: Văn học là nghệ thuật ngôn ngữ. Nhận thấy vai trò vô cùng quan trọng của ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, nhà văn Nga V. Kôrôlenkô đã tâm sự:
“Tôi muốn rằng mỗi một từ, một một câu phải đúng với giọng điệu, phải đúng chỗ và trong mỗi câu, thậm chí nếu có thể được, trong câu tách ra riêng, có thể lắng nghe thấy tâm trạng trung tâm, nếu có thể nói như vậy được”
[32,192]. Như vậy ngôn ngữ nghệ thuật có một vai trò đặc biệt quan trọng bởi nó là yếu tố “vật chất” duy nhất của tác phẩm văn học. Qua ngôn ngữ người đọc khám phá thế giới hình tượng, tư tưởng, quan niệm… mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm. Bên cạnh đó, ngôn ngữ nghệ thuật lại chứa đựng cả thế giới nghệ thuật mà nhà văn sáng tạo, từ cảnh vật, con người đến cốt truyện, kết cấu chủ đề… Trong mối quan hệ chặt chẽ ấy, ngôn ngữ nghệ thuật trở thành phương thức tồn tại, phương tiện biểu hiện nội dung, đồng thời có thể biểu hiện trực tiếp và rõ nét phong cách, tài năng của nhà văn.