(VOV5) – Dân tộc Mường có bộ sử thi “Đẻ đất đẻ nước” kể cho con cháu nghe về cuộc sống cha ông từ thuở khai thiên lập địa. Sử thi “Đẻ đất đẻ nước” được coi là bộ bách khoa toàn thư về phong tục của người Mường, ở đó lịch sử của người Mường được tái hiện qua trí tưởng tượng trong trẻo, hồn nhiên, khoáng đạt đến kì lạ của con người. Nghe nội dung chi tiết tại đây:
Ngay từ thuở xa xưa, dân tộc Mường không ngừng nhận thức, khám phá và lý giải nguồn gốc muôn vật và loài người, không ngừng tìm hiểu những hiện tượng tự nhiên đầy bí ẩn tác động lên sự sống con người. Người Mường cho rằng không có thần linh hay thần thánh nào sinh ra đất, nước mà chính tự nhiên đã đẻ ra đất, trời, đẻ ra nước nên mới có sông, suối. Cuộc sinh nở này thật là vĩ đại song chưa có con người, chưa có muôn loài. Đất trời khi đó hoang vu, lạnh lẽo: Đây là sử thi truyền miệng. Ở đây có rất nhiều sự kiện như về cây có cây chu đồng là cây thần. Đây là một cây vũ trụ phản ánh thế giới con người và trời đất và cây si, và sự kiện người Mường sinh ra như thế nào. Đặc biệt có chuyện sinh ra trứng, trứng sinh ra các dân tộc như thế nào. Sự tưởng tượng của sử thi rất là phong phú. Đây là tác phẩm truyền miệng, truyền cho nhau qua việc diễn xướng khiến họ giữ được sử thi và vẫn đảm bảo được tính thống nhất của sử thi.
Qua quá trình phát triển, sử thi Đẻ đất đẻ nước của người Mường xuất hiện nhiều dị bản. Giáo sư Ngô Đức Thịnh cho biết: Có nhiều dị bản, dị bản ngắn nhất là 8000 câu và dài nhất là 16000 câu, ít nhất có khoảng 7 đến 8 dị bản. Dị bản phụ thuộc vào các địa phương khác nhau và truyền thống của cư dân, cơ bản khác nhau về mặt tình tiết còn cái chung vẫn đảm bảo. Người Mường rất tự hào về sử thi. Có rất nhiều lớp kể về người dân, kể về tầng lớp quý tộc, thầy lang. Ngoài vai trò của nhân dân thì còn có vai trò của quý tộc. Việc truyền dòng họ từ đời này sang đời kia như thế nào.
Có thể nói, sử thi Đẻ đất đẻ nước là một công trình văn hóa, trong đó có cả văn học dân gian, văn hóa dân gian, cả triết học, sử học, dân tộc học. Trong sử thi Đẻ đất đẻ nước có thể nhận thấy những đặc trưng, sắc thái riêng của nghệ thuật dân gian. Cách cảm, cách nghĩ của người miền núi xưa đã tạo nên cách nói năng mang dấu ấn riêng biệt. Người Mường dùng lối đối lời, đối câu tạo nên những hình ảnh trùng điệp, chồng chất tầng tầng lớp lớp, phù hợp với cấu trúc có tính hoành tráng của sử thi. “Mưa dầm dề chín đêm mười ngày/ Mưa rào rào chín buổi sáng mười đêm” Điều này đã thể hiện được cả hai vẻ đẹp, vẻ đẹp trí tuệ và vẻ đẹp tâm hồn của người Mường trong trường ca Đẻ đất đẻ nước./.