Contents
CÁC QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC
Nhận thức cảm tính.
Khái niệm:
Mỗi sự vật, hiện tượng quanh ta đều được thể hiện ra bên ngoài hàng loạt các đặc điểm như màu sắc (xanh, đỏ…), trọng lượng (nặng, nhẹ…), khối lượng (to, nhỏ…). Chúng ta biết được những thuộc tính đó là nhờ bộ não. Biểu tượng của những thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào ta được gọi là các biểu tượng nhận thức cảm tính. Quá trình chúng ta nhận biết được các thuộc tính đó là quá trình nhận thức cảm tính.
Ví dụ: khi ta nhắm mắt, người bạn đặt vào lòng bàn tay ta một vật gì đó. Nếu không sờ mó, nắm, bóp, ta chỉ có thể cảm nhận được vật đó nặng hay nhẹ, nóng hay lạnh.
Chúng ta đang quan sát ngôi nhà. Trong đầu chúng ta khi đó xuất hiện hình ảnh ngôi nhà.
Chúng ta có cảm giác nóng, lạnh, trong đầu có hình ảnh ngôi nhà… đó chính là biểu tượng nhận thức cảm tính. Khi chúng ta đang cảm thấy nóng hoặc khi chúng ta đang nhìn ngôi nhà thì đó là quá trình nhận thức cảm tính.
Đặc điểm chung nhất của nhận thức cảm tính là chỉ phản ánh được những thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng khi sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan chúng ta.
Nhận thức cảm tính bao gồm 2 quá trình chính là cảm giác và tri giác.
Cảm giác:
Khái niệm:
Cảm giác là quá trình tâm lí phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.
Cảm giác là hình thức phản ánh tâm lí, sơ đẳng, đơn giản nhất. Biểu tượng của nó chỉ là những thuộc tính riêng rẽ của sự vật. Tuy nhiên nó lại đóng vai trò khởi đầu cho các quá trình tâm lí khác như tưởng tượng, tư duy, trí nhớ… Cảm giác cũng là khâu đầu tiên trong sự nhận thức hiện thực khách quan của con người.
Các loại cảm giác:
Cảm giác bên ngoài:
Cảm giác nhìn (thị giác): cho chúng ta biết thuộc tính ánh sáng, màu sắc, kích thước của đối tượng.
Cảm giác nghe (thính giác): cho chúng ta biết những thuộc tính của âm thanh.
Cảm giác ngửi (khứu giác): giúp con người nhận biết được mùi.
Cảm giác nếm (vị giác): giúp chúng ta nhận biết các loại vị: mặn, nhạt, đắng, cay…
Cảm giác da (mạc giác): cho ta biết về nhiệt độ.
Cảm giác bên trong:
Cảm giác vận động.
Cảm giác thăng bằng.
Cảm giác nội tạng.
Các quy luật cơ bản của cảm giác:
Quy luật ngưỡng cảm giác (quy luật về tính nhạy cảm):
Muốn có cảm giác thì phải có kích thích. Tuy nhiên cường độ kích thích phải đạt đến độ nhất định mới có thể gây ra được cảm giác. Mức độ đó được gọi là ngưỡng cảm giác.
Ngưỡng cảm giác là cường độ tối thiểu của kích thích để có thể gây ra được cảm giác.
Quy luật này còn gọi là quy luật về tính nhạy cảm bởi lẽ khi nói đến tính nhạy cảm cao thì điều đó có nghĩa là chỉ cần cường độ kích thích nhỏ nhưng đã có thể có cảm giác. Ví dụ: người ta nói một người nào đó có đôi tai rất thính có nghĩa là với âm thanh khá nhỏ, trong khi người khác chưa nghe thấy thì người đó đã nghe thấy. Như vậy độ nhạy cảm càng cao thì có nghĩa là ngưỡng cảm giác càng thấp.
Điểm đáng lưu ý ở đây là khi chúng ta nói đến ngưỡng cảm giác là chúng ta đề cập đến đại lượng vật lí, ví dụ như cường độ âm thanh, trọng lượng… còn khi ta nói độ nhạy cảm thì đó lại là “đại lượng” tâm lí. Do không đo được trực tiếp độ nhạy cảm của giác quan nên người ta phải đo nó một cách gián tiếp, thông qua việc đo các kích thích vật lí bên ngoài.
Quy luật thích ứng cảm giác:
Để phản ánh được tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh, cảm giác của con người có khả năng thích ứng với kích thích.
Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với sự thay đổi của cường độ kích thích: khi cường độ kích thích tăng thì độ nhạy cảm giảm và ngược lại, độ nhạy cảm tăng khi cường độ kích thích giảm. Ví dụ: khi đang ở chỗ sáng (cường độ kích thích mạnh), đi vào chỗ tối (cường độ kích thích yếu) thì lúc đầu ta không nhìn thấy gì, sau đó dần dần mới nhìn rõ mọi vật. Điều này là do độ nhạy cảm tăng dần.
Tất cả các giác quan đều tuân theo quy luật thích ứng. Tuy nhiên mức độ khác nhau. Cảm giác thị giác có khả năng thích ứng cao. Trong bóng tối tuyệt đối, độ nhạy cảm với ánh sáng tăng gần 200.000 lần sau 40 phút. Bên cạnh đó, cảm giác đau hầu như không thích ứng.
Khả năng thích ứng của cảm giác cũng có thể được phát triển do rèn luyện. Ví dụ: công nhân luyện kim có thể chịu đựng được nhiệt độ cao tới 500 – 600C trong hàng giờ đồng hồ.
Quy luật tác động lẫn nhau của cảm giác:
Các cảm giác không tồn tại độc lập mà luôn tác động qua lại lẫn nhau. Do sự tác động qua lại như vậy, tính nhạy cảm của cảm giác bị thay đổi. Kích thích yếu lên cơ quan phân tích này lại làm tăng độ nhạy cảm của giác quan kia. Ngược lại, tác động mạnh lên giác quan này làm giảm độ nhạy cảm của cơ quan phân tích khác.
Ví dụ: khi nghe nhạc, có ánh sáng mầu kèm theo thì các bản nhạc cũng được cảm nhận rõ nét hơn.
Tri giác:
Khái niệm:
Tri giác là một quá trình tâm lí nhận thức cảm tính, phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan người ta.
Cũng giống với cảm giác, tri giác là một quá trình nhận thức cảm tính.
Là một quá trình vì có khởi đầu, diễn biến và kết thúc.
Là quá trình nhận thức vì biểu tượng tri giác giúp cho con người nhận biết được hiện thực khách quan bên ngoài.
Là cảm tính vì chỉ gọi là biểu tượng tri giác khi sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan.
Tuy nhiên biểu tượng tri giác là là một hình ảnh trọn vẹn về sự vật, hiện tượng. Biểu tượng này được cấu thành từ các cảm giác. Ví dụ: hình ảnh ngôi nhà mà chúng ta đang nhìn thấy bao gồm những cảm giác khác nhau về màu sắc, kích thước. Lẽ đương nhiên đó không phải là một tổng số học mà là một tổng thể các cảm giác.
Các loại tri giác:
Tri giác không gian: tri giác không gian giúp người ta nhận biết được kích thước, hình dạng, khoảng cách, phương hướng của đối tượng.
Tri giác thời gian: tri giác thời gian là sự phản ánh độ lâu, vận tốc và tính kế tục của các hiện tượng.
Tri giác vận động: phản ánh những thay đổi về vị trí của các sự vật trong không gian.
Ngoài cách phân loại theo đối tượng tri giác như trên còn có cách phân loại theo giác quan. Theo cách phân loại này, người ta có các loại tri giác: thị giác, thính giác, khứu giác…
Các quy luật cơ bản của tri giác:
Quy luật về tính đối tượng của tri giác:
Hình ảnh mà tri giác đem lại bao giờ cũng là biểu tượng của một sự vật, hiện tượng nhất định của thế giới bên ngoài. Tính đối tượng của tri giác nói lên cái mà tri giác đem lại. Trong quy luật này đã hàm chứa tính chân thực của tri giác.
Quy luật về tính lựa chọn của tri giác:
Tri giác không thể phản ánh được toàn bộ những kích thích đang tác động lên giác quan của con người ở tại một thời điểm. Do vậy để tri giác, con người phải tách đối tượng ra khỏi bối cảnh.
Sự lựa chọn của tri giác cũng không mang tính cố định. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố bên ngoài cũng như bên trong của chủ thể.
Quy luật về tính lựa chọn của tri giác được ứng dụng nhiều trong thực tiễn: kiến trúc, quảng cáo, quân sự (nguỵ trang), trong giáo dục và dạy học.
Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác:
Tri giác của con người gắn chặt với tư duy, với bản chất của sự vật, hiện tượng. Chính vì lẽ đó, biểu tượng tri giác cho phép người ta gọi tên được sự vật hiện tượng, có thể sắp xếp chúng vào một nhóm, lớp nhất định.
Quy luật về tính ổn định của tri giác:
Tính ổn định của tri giác thể hiện ở chỗ trong các điều kiện khác nhau nhưng nội dung của biểu tượng tri giác vẫn không thay đổi. Ngôi nhà, dù có cách xa chúng ta hàng ngàn mét và hình ảnh của nó trên võng mạc nhỏ hơn hình ảnh của một người đang đứng trước mặt chúng ta thì ngôi nhà vẫn được tiếp nhận to hơn so với con người. Sự ổn định tri giác còn thể hiện ở cả về mầu sắc, kích thước…
Quy luật tổng giác:
Quy luật này thể hiện ở chỗ nội dung các biểu tượng tri giác còn phụ thuộc vào nội dung đời sống tâm lí của chủ thể: thái độ, nhu cầu, cảm xúc, động cơ… (Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ – Nguyễn Du).
Tri giác nhầm:
Trong một số trường hợp, hình ảnh của tri giác không phù hợp với thực tại. Cần phân biệt tri giác nhầm với ảo giác. Tri giác nhầm là quá trình chúng ta vẫn đang tri giác (sự vật, hiện tượng vẫn đang tác động vào giác quan) song biểu tượng tri giác không tương xứng với thực tiễn. Ví dụ: khi ta nhìn cái thìa đang để trong nửa cốc nước, ta thấy như cái thìa bị gãy ở chỗ mặt nước. Ảo giác là hiện tượng con người vẫn “nhìn” thấy, ví dụ: nhìn thấy rắn rết bò đầy trên giường nhưng thực tế không có, nghe thấy tiếng nói nhưng xung quanh không có ai. Tri giác nhầm là hiện tượng bình thường còn ảo giác là hiện tượng bệnh lí.
Cảm giác và tri giác đều là quá trình nhận thức cảm tính. Trong thực tế, khi chúng ta quan sát sự vật hiện tượng thì sự xuất hiện của cảm giác và tri giác là đan xen nhau, có thể cái này xuất hiện trước cái kia. Ví dụ: “bắt mắt” là màu đỏ, sau đó chúng ta mới quan sát tổng thể ngôi nhà. Cũng có thể hình ảnh ngôi nhà xuất hiện trước, sau đó với xuất hiện các cảm giác.
Tư duy.
Tư duy là gì ?
Cảm giác, tri giác đã giúp cho con người nhận biết được các của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên đó mới chỉ là các đặc điểm bên ngoài. Để nhận biết được cái bên trong, cái cốt lõi của các sự vật hiện tượng đó, con người cần đến tư duy.
Tư duy là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng khách quan mà trước đó ta chưa biết.
Các đặc điểm tư duy:
Tư duy xuất phát từ hoàn cảnh có vấn đề:
Hoàn cảnh có vấn đề có thể là một bài toán, một nhiệm vụ cần phải giải quyết… Cùng một hoàn cảnh song đối với người này là hoàn cảnh có vấn đề nhưng đối với người khác lại không. Như vậy hoàn cảnh có vấn đề là hoàn cảnh kích thích con người suy nghĩ.
Tính gián tiếp của tư duy:
Tư duy nhận biết được bản chất của sự vật hiện tượng nhờ sử dụng công cụ (các dụng cụ đo đạc, máy móc…); các kết quả của nhận thức (quy tắc, công thức, quy luật…). Tính gián tiếp của tư duy còn thể hiện ở chỗ nó được thể hiện thông qua ngôn ngữ.
Tính trừu tượng và khái quát của tư duy:
Tư duy phản ánh cái bản chất, cái chung nhất cho một loại, một lớp hiện tượng sự vật và khái quát chung bởi khái niệm. Nhờ có tư duy, con người có thể đi sâu vào đối tượng, cho phép họ nhận thức được những vấn đề mà cảm giác, tri giác không tiếp cận được.
Tư duy liên quan chặt chẽ tới ngôn ngữ:
Tư duy trừu tượng không thể tồn tại nếu không có ngôn ngữ. Nhờ có ngôn ngữ, tư duy có được tính khái quát và gián tiếp. Cũng nhờ có ngôn ngữ, những sản phẩm của tư duy mới được truyền đạt cho người khác. Trong lâm sàng tâm thần, ngôn ngữ được coi là hình thức của tư duy và việc phân loại các rối loạn hình thức tư duy dựa trên ngôn ngữ.
Tư duy liên hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính:
Nhận thức cảm tính thu thập tư liệu. Các biểu tượng của nhận thức cảm tính là nguyên liệu cho tư duy. Tư duy phát triển cũng giúp định hướng nhận thức cảm tính.
Các thao tác tư duy:
So sánh:
Dùng trí óc đối chiếu các đối tượng hoặc những thuộc tính, bộ phận… để xem xét sự giống nhau hay khác nhau, đồng nhất hay không đồng nhất.
So sánh là cơ sở của mọi hiểu biết và của tư duy. Chúng ta nhận biết thế giới không ngoài cách thông qua so sánh và phân biệt với một vật gì khác thì chúng ta không thể có ý niệm nào và không thể nói lên một điểm nào về sự vật đó cả (Usinxki).
Phân tích và tổng hợp:
Phân tích: dùng óc phân chia đối tượng thành bộ phận, thuộc tính, quan hệ.
Tổng hợp: kết hợp những đối tượng, thuộc tính quan hệ v.v.. thành tổng thể.
Trừu tượng hoá và khái quát hoá:
Trừu tượng hoá: gạt bỏ những bộ phận, thuộc tính, quan hệ thứ yếu, chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết của đối tượng để tư duy.
Khái quát hoá là dùng trí óc bao quát nhiều đối tượng khác nhau trên cơ sở một số thuộc tính, quan hệ, bộ phận giống nhau sau khi đã gạt bỏ những điểm khác nhau.
Khái quát hoá là loại tổng hợp mới sau khi đã trừu tượng hoá.
Trong tư duy, các thao tác được thực hiện theo một hệ thống nhất định.
Các loại tư duy:
Theo lịch sử hình thành:
Tư duy trực quan – hành động:
Đây là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện nhờ sự cải tổ các tình huống bằng các hành động vận động có thể quan sát được. Loại tư duy này có ở cả động vật cao cấp.
Tư duy trực quan – hình ảnh:
Đây là loại tư duy mà việc giải quyết các nhiệm vụ được thực hiện bằng sự cải tổ tình huống chỉ trên bình diện hình ảnh mà thôi. Loại này đã phát triển mạnh ở trẻ nhỏ.
Tư duy trừu tượng:
Loại tư duy được thực hiện trên cơ sở sử dụng các khái niệm, kết cấu logic, được tồn tại trên cơ sở tiếng nói
Ba loại tư duy trên tạo thành các giai đoạn của phát triển tư duy trong quá trình phát sinh chủng loại và cá thể.
Theo hình thức biểu hiện của vấn đề (nhiệm vụ) và phương thức giải quyết vấn đề:
Tư duy thực hành:
Tư duy thực hành là loại tư duy mà nhiệm vụ của nó được đề ra một cách trực quan, dưới hình thức cụ thể, phương thức giải quyết là những hành động thực hành. Ví dụ: tư duy của người thợ sửa xe hơi khi xe hỏng.
Tư duy hình ảnh cụ thể:
Đây là loại tư duy mà nhiệm vụ của nó được đề ra dưới hình thức một hình ảnh cụ thể và sự giải quyết nhiệm vụ cũng được dựa trên những hình ảnh đã có. Ví dụ: suy nghĩ xem từ trường về nhà đi đường nào là tối ưu cho xe máy.
Tư duy lí luận:
Đó là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra dưới hình thức lí luận và việc giải quyết nhiệm vụ đó đòi hỏi phải sử dụng hệ thống khái niệm trừu tượng, những tri thức lí luận. Ví dụ: giải quyết các bài toán về kinh doanh.
Ngôn ngữ.
Mặc dù ngôn ngữ không phải hoàn toàn là quá trình nhận thức song nó gắn bó một cách mật thiết với tư duy nên chúng ta đề cập sâu thêm về hiện tượng tâm lí này cũng là nhằm hiểu sâu sắc hơn lĩnh vực nhận thức.
Khái niệm về ngôn ngữ:
Con người có khả năng truyền đạt kinh nghiệm cá nhân cho người khác và sử dụng kinh nghiệm của người khác vào hoạt động của mình nhờ có ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là hiện tượng xã hội – lịch sử . Do sống và hoạt động cùng nhau nên con người có nhu cầu giao tiếp.
Nói một cách chung nhất, ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu từ ngữ.
Kí hiệu: Pavlov đã nói ngôn ngữ là tín hiệu của tín hiệu.
Hệ thống: chỉ có ý nghĩa và thực hiện một chức năng nhất định trong hệ thống của mình.
Ngôn ngữ – hệ thống kí hiệu từ ngữ gồm 3 bộ phận:
Ngữ âm
Từ vựng
Ngữ pháp – hệ thống các quy tắc thành lập từ, cấu thành câu (từ pháp và cú pháp), sự phát âm (âm pháp).
Các đơn vị của ngôn ngữ là âm vị, hình vị, từ, câu, ngữ đoạn, văn bản…
Các chức năng của ngôn ngữ:
Chức năng chỉ nghĩa:
Ngôn ngữ để chỉ chính sự vật, hiện tượng, tức là thay thế chúng. Nói một cách khác, ý nghĩa của sự vật, hiện tượng có thể được khách quan hoá lần nữa và có thể di chuyển đi nơi khác, làm cho con người có thể nhận thức được chúng ngay cả khi chúng không xuất hiện trước mặt.
Chức năng chỉ nghĩa còn được gọi là chức năng làm phương tiện tồn tại, truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội – lịch sử loài người.
Ngôn ngữ khác hẳn với những tiếng kêu của động vật. Về bản chất, động vật không có ngôn ngữ.
Chức năng thông báo:
Ngôn ngữ được dùng để truyền đạt, tiếp nhận thông tin, để biểu cảm và nhờ đó, điều chỉnh, thúc đẩy hoạt động của con người.
Chức năng thông báo của ngôn ngữ còn được gọi là chức năng giao tiếp.
Chức năng khái quát hoá:
Ngôn ngữ không chỉ một sự vật, hiện tượng riêng rẽ mà cả một loại, lớp có chung một/một số thuộc tính: phạm trù, khái niệm, thuật ngữ… Nhờ vậy nó là phương tiện đắc lực cho hoạt động trí tuệ.
Ngôn ngữ vừa là công cụ tồn tại của hoạt động trí tuệ, vừa là phương tiện lưu lại kết quả của hoạt động này. Do vậy hoạt động trí tuệ không bị gián đoạn, không bị lặp lại và có cơ sở cho sự phát triển tiếp theo.
Chức năng khái quát hoá của ngôn ngữ còn gọi là chức năng nhận thức hay chức năng làm công cụ hoạt động trí tuệ.
Trong 3 chức năng của ngôn ngữ kể trên, chức năng giao tiếp là chức năng cơ bản nhất. Chỉ trong quá trình giao tiếp, con người mới lĩnh hội được tri thức về hiện thực, điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với hoàn cảnh sống. Về thực chất, chức năng nhận thức cũng là quá trình giao tiếp, ở đây là giao tiếp với chính bản thân mình. Còn chức năng chỉ nghĩa chỉ là điều kiện để thực hiện hai chức năng kia.
Vai trò của ngôn ngữ đối với nhận thức:
Vai trò của ngôn ngữ đối với nhận thức cảm tính:
Đối với cảm giác: ảnh hưởng mạnh đến ngưỡng cảm giác.
Đối với tri giác: làm cho quá trình tri giác dễ dàng hơn, đặc biệt trong quan sát.
Đối với trí nhớ:
Vai trò của ngôn ngữ trong nhận thức lí tính.
Gắn bó rất mật thiết với tư duy. Ở người trưởng thành, tư duy và ngôn ngữ không tách rời nhau.
Ngôn ngữ là phương tiện để truyền tải tư duy.
Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và lí tính.
Nhận thức của con người bắt đầu từ nhận thức cảm tính.
Các biểu tượng nhận thức cảm tính được trí nhớ lưu giữ lại.
Nhiều biểu tượng cùng loại với nhau được “cô đặc” lại vào từ.
Các từ, khái niệm (hoặc cũng có thể các biểu tượng cảm tính) được sử dụng cho tư duy: giải quyết một nhiệm vụ nào đó.
Biểu tượng cảm tính càng phong phú thì hệ thống khái niệm cũng phong phú theo và là điều kiện tốt cho tư duy.
Tư duy, ngôn ngữ phát triển nó sẽ định hướng, lựa chọn, hỗ trợ đắc lực (cùng với cảm xúc, tình cảm) cho nhận thức cảm tính.