Trong Tử Vi Đẩu Số, cung Mệnh cho biết những điểm mấu chốt về dung mạo, tính cách, tài năng, công danh thành bại một đời của đương số. Nó còn cho biết một số thông tin cơ bản về quan hệ với phụ mẫu, con cái, phu thê, bằng hữu. Nó là đầu mối then chốt của cả 11 cung còn lại. Cũng như vậy, các tinh diệu trong cung Mệnh của cung đại hạn, cung lưu niên cát hung ra sao sẽ quyết định mấu chốt cát hung của đại hạn đó hoặc lưu niên đó.
Cung Mệnh là cung Quan Lộc của cung Tài Bạch, do đó, cung Mệnh là năng lực quản lý tiền tài. Cung can của cung Mệnh (chú ý: không phải là can của năm sinh) dẫn phát tài tinh Hóa Kỵ thì năm, tháng, ngày đó người này tiền tài chịu tổn thất.
Nếu Vũ Khúc, Văn Khúc miếu vượng, lại có Tả Hữu lai giáp cung Mệnh, chủ người này có tài năng rất lớn (Trung Châu Phái Vương Đình Chi cho rằng chỉ có cung Mệnh ở cung Sửu, Thìn thì mới ứng cách này, và cung Sửu thì tốt hơn).
Phàm trong tứ sát tinh có 1 sát trở lên nhập Thân Mệnh thì người này khó tránh khỏi bị phá tướng. Phá tướng tức là tướng mạo có tỳ vết, như sẹo, chàm, bớt, cong, lệch, vẹo, vv…, nhất là trên khuôn mặt.
Nếu nữ mệnh mà trong cung Mệnh có tứ sát, Không, Kiếp, Thiên Hình, Thiên Diêu, Xương, Khúc, Đào Hoa, Hóa Kỵ… thì thường không tốt, nếu trong số đó có từ 4 tinh diệu đồng thời tọa thủ trở lên chủ người này có khuynh hướng dâm loạn.
Nếu cung Mệnh có cung can dẫn phát chủ tinh Hóa Lộc cung Thiên Di, chủ người này muốn xuất ngoại hoặc có thể xuất ngoại.
Nếu cung Mệnh lạc tại tứ mã chi địa (Dần, Thân, Tỵ, Hợi), chủ người này vất vả, cuộc đời sự nghiệp thường có thăng trầm biến hóa lớn, thường xa nhà vất vả bôn ba. Nếu cung Mệnh lại có tinh diệu lạc hãm Hóa Kỵ, chủ người này sẽ bôn tẩu xa nhà. Trong đó, nếu tại Dần, Thân, Tỵ, Hợi có 2 chủ tinh, người này thường hay công tác đa nhiệm hoặc làm 2 nghề trở lên. Nếu như đại hạn hoặc lưu niên rơi vào 4 cung vị này mà lại có Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Thái Dương, Thái Âm, Xương, Khúc, Lộc Tồn, Hóa Lộc trong đó thì cát, chủ người này thời kỳ đó tài vận vượng, hoặc có thêm nhân khẩu.
Nếu cung Mệnh hoặc cung Thiên Di lạc tại tứ bại chi địa (Tý, Ngọ, Mão, Dậu), chủ người này thích kết giao bạn bè và đi chơi, vận tốt thì được nhiều lần cơ hội xuất ngoại vui vẻ.
Nếu cung Mệnh lạc tại tứ mộ chi địa (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi), chủ người này lục thân hình khắc, nên ra ngoài phát triển. Trong đó, do Thìn là “Thiên La”, Tuất là “Địa Võng”, do đó nếu cung Mệnh lạc tại Thìn, Tuất, chủ người này một đời vất vả, phần lớn là chủ tha hương phát triển. Nếu như lại có Thái Dương, Thái Âm, Thiên Cơ, Thiên Lương nhập mệnh, thì người này hoàn cảnh một đời đầy biến động, thường xuyên công tác xa, hoặc có quan hệ hợp tác làm ăn với người vùng khác. Nếu đại hạn hoặc lưu niên nằm tại 4 cung vị này, thêm nữa trong cung có Liêm Trinh, Thất Sát, Dương, Đà, Hỏa, Linh, Không, Kiếp, Hóa Kỵ, Thiên Thương, Thiên Sứ, chủ người này thời kỳ này không cát.
Nếu cung can của cung Mệnh dẫn phát chủ tinh cung Thiên Di Hóa Kỵ, chủ người này xuất ngoại hoặc đi xa hoặc lấy chồng, nếu hội thêm Thiên Mã càng ứng nghiệm.
Khi đoán mệnh, nếu trong cung Mệnh không có 28 Giáp cấp chủ tinh (14 chính tinh, lục cát tinh, lục hung tinh, Lộc Tồn, Thiên Mã), thì lấy đối cung suy đoán, nhưng theo nguyên tắc cát giảm còn nửa, hung tăng phần hung (tham khảo thêm “Cung Mệnh vô chủ tinh” chuyên luận). Nhưng phần lớn là chủ người này ích kỷ hẹp hòi, đối tiền tài quá xem trọng, nhẹ thì so đo từng tí, nặng thì luôn muốn lợi dụng người khác, không ngay thẳng phóng khoáng, do đó làm người khác có ác cảm.
Nếu trong cung đại hạn hoặc cung lưu niên có Bắc Đẩu tinh diệu (tức Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh) tọa thủ, thì tác dụng cát hung của các tinh diệu khác trong đó đều tăng lên nhiều. Nếu trong cung đại hạn hoặc cung lưu niên có Nam Đẩu tinh diệu (tức Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân) tọa thủ, thì tác dụng cát hung của các tinh diệu khác trong đó đều giảm bớt nhiều.
Nếu trong cung Mệnh có Văn Khúc, Hữu Bật, Thiên Việt, Hàm Trì, Thiên Diêu, Mộc Dục, Hóa Lộc, Không, Kiếp,Thiên Mã, càng nhiều thì càng đào hoa.
Phàm cung Mệnh tam phương tứ chính có Thái Dương, Thái Âm, cũng là tượng đào hoa.
Tử Vi Đẩu Số cung Mệnh tam phương tứ chính có Văn Xương (Văn Khúc), Hóa Khoa; hoặc trong cung Mệnh có Lộc, Quyền, Khoa, hoặc giả cung Thiên Di và trong các cung tam hợp có Lộc, Quyền, Khoa; hoặc trong cung Mệnh có Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc, cung Thiên Di và các cung tam hợp có Văn Xương, Văn Khúc hoặc Hóa Khoa, người này thường có trình độ đại học.
Nếu cung Mệnh, cung Phụ Mẫu, cung Tật Ách đều có sát tinh, chủ người này đa bệnh, tàn tật thậm chí chết yểu.
Cung Mệnh và cung Thiên Di có quan hệ: Cung Mệnh biểu thị hiện tại, bản địa, tự thân, còn cung Thiên Di biểu thị tương lai, xa nhà, cách nhìn của tha nhân đối với mình; nếu cung Mệnh tốt hơn cung Thiên Di, thì thích hợp tại bản địa phát triển, nếu ngược lại thì thích hợp xa nhà phát triển.
Nếu cung can của cung Mệnh dẫn phát Hóa Quyền nhập cung Tài Bạch, chủ người này quản lý kho tiền, hơn nữa có thể căn cứ thiên can đối ứng năm, tháng, ngày mà suy đoán ra thời gian cụ thể mà người này quản lý kho tiền.