Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân gồm dàn ý và 7 bài văn mẫu hay, đạt điểm cao của các bạn học sinh giỏi. Qua đó giúp các em học sinh lớp 12 có nhiều ý mới, ý hay, ý đẹp khi làm văn. Đồng thời có thêm nhiều vốn từ phong phú để biết cách viết bài văn cảm nhận nhân vật ngày một hay hơn.
Tràng là hình tượng nhân vật trung tâm của truyện ngắn Vợ nhặt. Tràng là nhân vật điển hình cho người nông dân lao động nghèo khổ, dù bất cứ trong hoàn cảnh đen tối nào vẫn luôn luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc gia đình và tin vào cuộc sống ở tương lai. Vậy dưới đây là 7 bài văn mẫu và 2 dàn ý cảm nhận về nhân vật Tràng hay nhất, mời các bạn cùng theo dõi.
Dàn ý cảm nhận về nhân vật Tràng
Dàn ý số 1
1. Mở bài cảm nhận về nhân vật Tràng
– Giới thiệu về tác giả Kim Lân và truyện ngắn Làng.
– Đôi nét về nhân vật Tràng cùng những phẩm chất cao đẹp.
– Có thể đi từ hình tượng người nông dân => Dẫn đến nhân vật Tràng trong Vợ nhặt.
2. Thân bài cảm nhận về nhân vật Tràng
– Xuất thân nghèo khó và hoàn cảnh éo le của nhân vật Tràng.
– Tràng là một nhân vật có tính cách nhân hậu và cởi mở.
– Nhân vật Tràng là người có ý thức và khát khao về hạnh phúc.
3. Kết bài cảm nhận về nhân vật Tràng
– Nêu những suy nghĩ chung về nhân vật Tràng trong tác phẩm.
– Khái quát nội dung cùng giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật.
– Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc. Đồng thời tác phẩm này cũng phản ánh chân thực bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của những người nông dân.
Dàn ý số 2
I. Mở bài
- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động.
- Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân trong nạn đói năm 1945, nhân vật Tràng là hình tượng đại diện cho số phận của những người nông dân giai đoạn này.
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh
- Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, …
- Hoàn cảnh bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, …
*Tâm trạng và hành động
Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ
– Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.
– Lần gặp 2:
+ Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
+ Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
+ Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.
– Trên đường về:
- Vẻ mặt “có cái gì phơn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”. Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diễn.
- Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
– Khi về đến nhà:
- Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
- Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vi gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
- Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
- Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:
- Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, …), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
- Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
– Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.
III. Kết bài
- Nêu suy nghĩ về nhân vật Tràng.
- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.
- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.
Cảm nhận về nhân vật Tràng – Mẫu 1
Kim Lân thuộc tốp những nhà văn viết ít, trong khi một số tác giả như Tô Hoài có đến hàng trăm tác phẩm, thì số tác phẩm của Kim Lân có thể đếm được trên đầu ngón tay. Nhưng những gì mà ông để lại nhớ nhiều , nhớ mãi. Chỉ một “vợ nhặt”, một “làng” cũng đủ để đưa ông lên hàng những tác giả nổi tiếng.
“Vợ Nhặt” chỉ có 3 nhân vật, mà nhân vật nào cũng có ấn tượng. Có những nhân vật không tên nhưng lại có khả năng lưu danh muôn thuở. Nói vậy là để thấy tài sáng tạo của Kim Lân và sức sống tiềm tàng của tác phẩm.
Tràng là một thanh niên đứng tuổi, hình hài thô tháp, lại còn là kẻ nghèo nhất trong xóm ngụ cư. Nhà tràng chỉ là một căn lều dúm dơ, xiêu vẹo mà có thể gió thổi bay lúc nào không biết.
Mẹ Tràng đã già lại yếu “đôi mắt nhòe”, “đôi tai nghễnh đãng, dáng đi lỏng thỏng, cử chỉ lập cập, lóng ngóng”. Nói cách khác, bà trụ lại với đời như thể đang chờ đợi tử thần đến rước đi. Trong cái đói khủng khiếp năm Ất Dậu -1945, mẹ con Tràng lê lết cầm hơi, tồn tại từng ngày nhờ vào công việc kéo xe của Tràng. Tính tình của Tràng ngay cả trẻ con cũng bỡn cợt, trêu chọc chứng tỏ anh có lớn mà trí khôn không lớn. Trong mắt mọi người Tràng luôn luôn có thể bị khinh thường, giễu cợt.
Từ cái hoàn cảnh ấy, có thể khẳng định: Tràng sẽ không bao giờ mơ đến chuyện lấy vợ.
Nhưng điều đáng quý ở Tràng là ngay cả trước thực trạng ấy, một thực trạng bi thảm anh vẫn tếu táo, tự trào, cần biết bông đùa. Thế rồi trong một lần tình cờ đang gò lưng kéo xe thóc vào dốc tỉnh. Tràng tự hò một câu để an ủi mình cho đỡ mệt. Điều quan trọng là câu hò ấy có cụm “ cơm trắng mấy giò” và dĩ nhiên mấy tiếng ấy lập tức làm cho những người phụ nữ đã mấy ngày ngồi vêu ra ở chợ không thể không để ý, và đã có một ả sán lại gần,biến sự đùa của Tràng thành sự thật. Tràng không ngờ mình đói lại còn có kẻ đói hơn mình. Tràng cho người phụ nữ ấy ăn, tình thương người đã dẫn Tràng đến với nghĩa cử hào hiệp trong cơn đói khát. Tràng không chỉ cho người phụ nữ ấy ăn như là cách bố thí mà Tràng còn cho Thị ăn bằng của tình yêu thương, sự đồng cảm và bằng sự cưu mang, chia sẻ. Nhưng rồi một tình huống không ngờ rằng người phụ nữ ấy không những cần tràng một bựa ăn mà còn muốn tìm ở Tràng một điểm tựa suốt đời. Khi biết Tràng chưa có vợ, người phụ nữ đã dũng cảm tiến lên để được làm vợ Tràng. Vậy là với Tràng lúc này,không còn là chuyện bông lơn, bỡn cợt nữa mà là trở thành chuyện hệ trọng của cả cuộc đời người. Tràng ứng xử hoàn toàn khác, một cách nghiêm túc, đứng đắn và anh đã chủ động vào chợ sắm cho Thị mấy thứ và “ ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê”. Với Tràng đó có thể là những thứ dẫn cưới, một cỗ cưới chăng? Từ giây phút này Tràng đã sống với Thị như những người đang yêu và được yêu, cũng cho thấy cũng từ tình thương mà chuyển đến tình yêu là chuyện quá bất ngờ và đột ngột. Nhưng Tràng không hề lúng túng, bối rối trước tình huống đó. Rồi chính anh cũng chủ động dắt người con gái ấy về để tình mẹ một cách đàng hoàng, nghiêm túc.
Thú vị thay, con đường từ chợ về nhà vốn dĩ là con đường tử thần ngự trị, con đường của sự chết chóc, nay đã trở thành một con đường xôn xao, rạo rực của ái tình. Mà Tràng là một nửa làm nên sự xôn xao, rạo rực ấy.
Về đến nhà, tuy chưa tin được rằng là mình đã có vợ, nhưng Tràng đã biết làm tròn nhiệm vụ của một người chồng. Tràng đã biết cùng với vợ làm nên một tổ ấm trong cảnh cơ hàn. Tràng đã cảm nhận được cái đẹp của tình yêu, cái giá của ái ân, hạnh phúc “phởn phơ hư…” Chính Tràng trong cơn đói khát như một thân phận, bèo bọt đã dạt trôi đến với một thân phận bèo bọt khác, nhưng cả hai đã không làm cho nhau bèo bọt hơn nữa. Ngược lại đã biết nương tựa vào nhau để sống, để hướng tới tương lai.
Kim Lân đã có những trang viết rất hay để miêu tả tâm lý nhân vật. Tràng giống như một đứa con tinh thần của Kim Lân. Tình huống nhặt vợ đầy bất ngờ và đặc biệt nhưng đã thể hiện được tư tưởng sâu sắc của tác phẩm đó chính là dù người nghèo đói, cùng cực nhưng họ luôn nghĩ đến sự sống chứ không phải là cái chết, luôn có niềm tin vào tương lai tươi đẹp. Qua Tràng ta cũng đã cảm nhận được một tâm hồn trong sáng đẹp đẽ của người dân lao động nghèo, đó chính là tình người và hi vọng.
Cảm nhận về nhân vật Tràng – Mẫu 2
Nhà văn Nga I.Bônđarep từng có ý tưởng rằng “Nghệ thuật sinh ra từ những thái cực và xung đột”. Ý kiến này quả đúng khi bàn về truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Với tác phẩm Vợ Nhặt nhà văn đã làm hiện lên trước mắt người đọc một bức tranh sinh động về hiện thực thê thảm ấy và lạ thay, giữa khoảng trống lay lắt,tối tăm của cuộc sống đói nghèo nhà văn đã cho ta thấy được tấm lòng của những con người đói khổ dù đang bị cái đói, cái chết rình rập nhưng họ vẫn cưu mang, đùm bọc, yêu thương và san sẻ, cùng hướng về sự sống, về hạnh phúc và tương lai. Nó được thể hiện như thế nào qua hình tượng nhân vật Tràng?
Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết không lâu sau nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nhà văn đã tái hiện lại thời khắc lịch sử ghê rợn thê lương, nó hòa nhập giữa cõi âm và cõi trần , giữa sự sống và cái chết , giữa người và ma. Tất cả hình ảnh, âm thanh, con người hiện lên đều rất chân thực, không một chút cường điệu. Qua truyện ngắn, người đọc mang đầy đủ những xúc cảm vừa độc đáo, éo le lại đầy cảm động và tin yêu. Đi sâu vào nhân vật Tràng ta sẽ thấy tất cả hiện thực và nhân đạo mà tác giả gửi gắm.
Nhắc đến Tràng là nhắc đến nhân vật được hóa công đẽo gọt quá sơ sài. Tràng- nhân vật chính của truyện được Kim Lân cho xuất hiện trên nền của cái đói với bóng người “xanh xám như những bóng ma”, người sống “nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Tràng có cái tên đặc biệt, một thứ đồ của thợ mộc- cái tràng. Anh được ngòi bút Kim Lân vẽ sơ sài với “hai con mắt gà gà, nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, mặt thì thô kệch, thân hình “vập vạp”. Không những vậy đến nơi ở của anh thì cành dong dấp cổng, tấm phên vách che nhà, mảnh vườn lổn nhổn là cỏ dại. Hơn hết, Tràng lại là dân ngụ cư, một loại người mà lúc bấy giờ bị ruồng bỏ như một thứ cỏ rác của hương thôn. Rõ ràng, trong hoàn cảnh ấy Tràng chỉ có thể cùng mẹ già nương tựa nhau qua nạn đói mà khó có thể lấy một cô vợ.
Mang ngoại hình thô kệch, xấu xí nhưng Tràng có trái tim nhân hậu, phóng khoáng. Bản thân dù đói nhưng không ngần ngại bỏ tiền mời người đàn bà hai bát bánh đúc. Anh vui vẻ đưa ba câu hò trêu chọc mà cô Thị sẵn sàng theo về làm vợ. Tràng có vợ, như một anh chàng tốt số đào hoa, chỉ buông đôi lời tán tỉnh mà đã có cô nàng vội vã theo không. Giữa cảnh trời đất tối sầm vì đói khát, những ngày nghèo đói, hai thân phận bọt bèo đã đạt đến với nhau vì khát vọng hạnh phúc lứa đôi, vì mong hơi ấm gia đình. Dẫn người vợ nhặt về nhà, Tràng ngổn ngang những suy nghĩ thời buổi này còn đèo bòng, không biết nuôi nổi không rồi lại tặc lưỡi cho qua và gương mặt hiện rõ niềm vui. Trong tác phẩm, hơn một lần nhà văn nói về hạnh phúc, nụ cười của Tràng từ e lệ cười tủm tỉm đến bật cười đầy thỏa mãn, khi thì hai mắt sáng lên lấp lánh, có lúc mặt vênh lên tự đắc với mình. Dường như anh quên hết cảnh sống ê chề hàng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang rình rập.
Từ khi có vợ, Tràng nhận ra trách nhiệm của bản thân với gia đình. Anh biết chăm lo cho đêm tân hôn có chút dầu đèn cho sáng sủa để hạnh phúc không tối xùm trong hoàn cảnh bi đát. Ta thấy Tràng hết sức trân trọng hạnh phúc của mình. Đặc biệt trong buổi sáng đầu tiên khi đã nên vợ nên chồng, nhìn người vợ mới quét dọn sân nhà, Tràng cảm thấy ngập tràn niềm yêu thương và thấy bản thân như “lớn hẳn”, cũng như trách nhiệm cùng lớn dần lên.
Trong bữa cơm đầu tiên, Tràng nghe chuyện vui mẹ kể về tương lai, biết được việc nhân dân phá kho thóc Nhật và khi ấy hình ảnh lá cờ đỏ bỗng phấp phới trong óc Tràng. Đây không phải một ước mơ viển vông, một ảo tưởng cổ tích mà nó cơ sở hiện thực, chính nhà văn đã nhìn thấy mà mở ra cho nhân vật của mình một hướng đi. Rõ ràng, Tràng đã có được hạnh phúc gia đình, có hơi ấm của tình thương. Quả đúng, dù trong túng đói tột cùng thì tình cảm vẫn quý hơn manh áo nó khiến con người được sống là chính mình, được nên người.
Tràng cũng chính là chân dung của những người lao động sống trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Họ nghèo mà không hèn, nghèo bạc chứ không nghèo tình. Họ luôn sống với nhau bằng chữ “tình”, bằng chân thành, bằng yêu thương, san sẻ và đùm bọc. Con người là biểu trưng của hy vọng, lạc quan, hướng về ánh sáng, nhìn đến tương lai và tin tưởng tuyệt đối vào Cách mạng.
Cảm nhận về nhân vật Tràng – Mẫu 3
Văn là đời. Chuyện văn là chuyện đời. Qua một cảnh ngộ, một tình huống, một nỗi lòng của nhân vật, nhà văn muốn mang đến cho bạn đọc những vấn đề nhân sinh. “Vợ nhặt” của Kim Lân là một tác phẩm như thế. Tất cả những gì nhà văn muốn gửi gắm có chăng đều được sáng ngời qua nhân vật Tràng- một gã nông dân nghèo, thô kệch nhưng nhân hậu và luôn giàu khát khao sống.
Tôi nhớ nhà thơ Buy-phông ở đâu đó từ nhận định: “Phong cách chính là người”. quả thật vậy. Kim Lân là con người mang đậm cốt cách dân tộc. Đó là lí do vì sao văn ông luôn chan chứa một mùi quê hương, giản dị, hồn hậu, dân dã như chính cuộc đời bụi bặm hàng ngày của những người dân thuần phác. Tô Hoài cũng từng nhận xét Kim Lân là “nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với những gì thuần hậu, nguyên thủy của làng quê Việt Nam”. Với tư cách là một nhà văn, ông không chen lấn ai và cũng không phải đỏ mặt với bất kỳ người nào. Kim Lân giống như một loại đồ cổ quý hiếm cất giữ trong đó nhiều bụi vàng văn hoá thẳm sâu của nền văn minh sông Hồng.Và thực tế, các tác phẩm của ông đã minh chứng rõ nét nhất cho điều đó.
“Vợ nhặt” là một truyện ngắn xuất sắc có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, Kim Lân viết ngay sau cách mạng tháng Tám, nhưng bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (1954), tác giả dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn. Ta đã từng bắt gặp một ông Hai trong “Làng”, một con người đậm chất “Kim Lân”, đậm chất làng quê. Nhân vật Tràng trong “Vợ nhặt” cũng là một con người như thế.
Có thể nói, Kim Lân đã rất tài tình khi “đặt nhân vật kề bên nanh vuốt của cái chết” (Nguyễn Đăng Mạnh). Bối cảnh là một xóm ngụ cư những năm nạn đói năm 1945. Khi mà cái chết hiện lên thành hình những người chết “nằm còng queo, nằm ngổn ngang, đi lại dật dờ”, cái chết vẫn lên thành mùi “ẩm thối của rác rưởi, mùi gây của xác người. mùi khét lẹt khi đốt đống rấm”. Cái chết hiện hình trong cả những âm thanh người hờ khóc tỉ tê, tiếng quạ trên cành cây gạo… Thậm chí là trong cả màu “xanh xám”, gợi cái cảm giác “heo hút, ngăn ngắt”, lạnh lẽo trong cảm nhận của mỗi người. Đặc biệt hơn cả là cảm quan hiện thực sắc sảo của nhà văn khi miêu tả “những người sống đi lại dật dờ như những bóng ma”. Ta thấy ở đó rùng rợn một bức tranh mà ranh giới giữa sự sống và cái chết vô cùng mỏng manh, cõi âm nhập nhòa trong cõi dương, trần gian mấp mé miệng vực của âm phủ.
Giữa cái nền ấy xuất hiện anh cu Tràng. Như bao nhân vật khác trong truyện ngắn Kim Lân, Tràng là một gã nông dân “khố rách áo ôm”. Hắn sống với mẹ già trong một “cái nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Đã nghèo, nhưng bên trong nhà còn bừa bãi, lộn xộn: một tấm phên rách, những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất, mấy cái quần rách như tổ đỉa vắt khươm mươi niên, cái ang nước khô cong, đống rác mùn không buồn quét… Kim Lân đã thật tài tình khi chọn lọc một loạt những chi tiết đắt giá làm nổi bật tình cảnh éo le nhà Tràng, chắt chiu từng “hạt bụi vàng” làm nên “bông hồng vàng” danh giá.
Tràng không có người yêu, nói một cách hóm hỉnh, Tràng “ế vợ”. Không chỉ bởi nhà hắn nghèo, cái đáng nói ở chỗ hắn là một gã ngờ nghệch, thô kệch và hết sức xấu xí. “Hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, quai hàm bạnh ra, cái đầu trọc nhẵn cứ chúi về phía trước”. Đã vậy, hắn còn hay lẩm bẩm một mình. Cuộc đời của một người đàn ông còn gì éo le hơn thế? Nam Cao cũng từng gửi nỗi niềm tâm sự ấy trong lời nói của Chí Phèo, giãi bày nỗi bất hạnh của giới trượng phu: “Tỉnh dậy, hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Đói rét, ốm đau và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn cả đói rét và ốm đau” (Chí Phèo).
Tôi nhớ Thạch Lam từng nói: Cái đẹp nằm trong cuộc sống, “cái đẹp len lỏi khắp các hang cùng ngõ hẻm, cái đẹp ở những chỗ không ai ngờ tới, cái đẹp tiềm tàng che lấp sự vật”. Và quả thật như vậy. Bề ngoài đói rách, khó ưa không có nghĩa là tâm hồn héo úa. Đến người đàn bà xấu “ma chê quỷ hờn” như Thị Nở còn có lúc động lòng thương đối với một con quỷ mất hết tính người, huống chi Tràng? Và ta nhận thấy khuất lấp đằng sau cái vẻ ngờ nghệch, thô kệch của hắn là một trái tim nóng bỏng yêu thương, một tấm lòng nhân hậu vô bờ cho người, cho đời.
Sở dĩ tôi có thể chắc chắn được như thế là bởi giữa cái năm “đói mòn đói mỏi” ấy (Bằng Việt), đến cái ăn cái mặc của mình Tràng còn không lo được, nhưng hắn lại sẵn sàng dang rộng đôi bàn tay của mình để cưu mang, giúp đỡ một người phụ nữ hoàn toàn xa lạ, lại thêm cái tính “Chao chát, cong cớn, chỏng lỏn”. Nói một cách công bằng, Tràng không hề có chủ ý muốn cưới người “vợ nhặt”, tất cả chỉ là bông đùa. Một lời mời chào xã giao (“muốn ăn cơm trắng mấy giò này, lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!), một lời hứa hẹn xuông, một lời rủ rê “chưa chính thức”. Thế là có vợ thật.
Ban đầu hắn xông xênh bỏ hẳn tiền túi ra mua một chập bốn bát bánh đúc cho người đàn bà khốn khổ kia. Rồi từ một câu nói tầm phơ tầm phào: “này đùa chứ có về ở với tớ một nhà cho vui”. Ấy vậy mà người “vợ nhặt” đồng ý thật. Hắn cũng đã thấy “chợn” bởi hắn lo sợ cho tương lai, đến bản thân mình còn không nuôi nổi mình huống chi cưu mang người khác? Tôi nghĩ, nếu lúc này gã đàn ông kia bỏ mặc người “vợ nhặt” thì cũng là dễ hiểu. Nhưng tình người trong gã thì chắc mất mát đi nhiều lắm, và Tràng cũng chẳng khác một thứ “bèo bọt” là bao. Nhưng rồi hắn đã “Chậc, kệ!”. Cái tặc lưỡi ấy nghe có vẻ bất cẩn, vô tâm và nguội lạnh quá. Nhưng thực chất đằng sau cái vẻ bỗ bã, tạm bợ ấy luôn nóng bỏng một tình yêu thương vô bờ. Đến nỗi, dẫu cho có biết bao đôi mắt đang nhìn chằm chằm vào đôi tình nhân mới “cưới”, họ rì rầm, bàn tán, chê bai: “chao ôi, thời buổi nào còn rước cái của nợ ấy về, có nuôi nổi nhau sống qua ngày không?”. Nhưng Tràng vẫn mặc kệ, giờ đây với hắn chỉ còn “tình nghĩa với người đàn bà đi kế bên”, hắn “tủm tỉm cười, hai mắt sáng lấp lánh”… Đó chính là niềm hạnh phúc vô bờ Tràng hằng ao ước bấy lâu. Có được nó, hắn sẵn sàng từ bỏ tất cả.
Nảy nở từ một trò đùa nhưng bên trong thực chất là một cái mầm nghiêm túc xây đắp hạnh phúc. Trên đường về, còn bao nhiêu tiền hắn dồn hết vào ba việc: đãi người vợ một bữa cơm, mua cho vợ cái thúng đựng mấy đồ lặt vặt và mua lấy ba hào dầu. Hai hành động đầu tiên nghe có vẻ thiết thực. Nhưng hành động thứ ba xem chừng xa xỉ, bởi lẽ không có đèn dầu, cuộc sống vẫn tốt, Hơn nữa, giữa cái thời buổi chết dần chết mòn vì đói ấy ai lại thèm để tâm đến chút ánh sáng nhỏ nhoi? Nhưng Tràng thì không thế, Dẫu cho có “nhặt” được vợ giữa đường giữa chợ như nhặt một cái rơm, cái rác nhưng không vì thế mà hắn thấy kinh thường người đàn bà đi kế bên. “Vợ mới vợ miếc thì cũng phải sớm sủa cái chứ chẳng nhẽ chưa tối mà đã rúc ngay vào?”. Ngọn đèn dầu chính là minh chứng cho trái tim nhân hậu, tấm lòng trân trọng của mình đối với một người đàn bà nghèo khổ. Ngọn đèn đã thắp lên tình yêu, hạnh phúc cho cặp vợ chồng son.
Đã là người, ai chẳng có bản năng ham sống? Nhưng tôi thấy ở Tràng, đó không chỉ là bản năng, đó còn là khát vọng. Khát khao sống, khát khao hạnh phúc. Hành động nhặt vợ chính là một biểu hiện như thế. Không khao khát, làm sao hắn dám dẫn một người đàn bà không tên không tuổi về làm vợ? Nhất là ở buổi sáng hôm sau, khi mặt trời lên cao bằng con sào, hưởng đêm trăng mật đầu tiên, lòng hắn thấy “êm ái, lửng lơ” lạ thường. Tràng thấy như không tin vào mắt mình. Ra là hắn đã có vợ đấy ư? Cái hạnh phúc nó tìm đến bất ngờ quá mà chưa kịp cảm nhận. Thấy mẹ và vợ đang cần cù quét tước, dọn dẹp nhà cửa, hắn thấy “thấm thía, cảm động”, như thêm “gắn bó với cái nhà hắn hơn”. “Một nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng” Ngôi nhà mà hắn đã từng gắn bó rất lâu, giờ đây đã thực sự trở thành tổ ấm nhờ bóng dáng người vợ hiền lành kia.
“Nhà”- chỉ một từ ấy thôi nhưng vô cùng ý nghĩa. “Nhà” không đồng nghĩa với “bình yên”, nhưng chúng ta ai cũng mong nó gắn với “bình yên” dẫu phải đánh đổi mọi thứ. Và Tràng cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Khao khát hạnh phúc lớn lao thúc giục hắn có ý nghĩa muốn làm một cái gì đó cho tổ ấm của mình. Quả thật, người vợ luôn có ý nghĩa đối với mỗi người chồng. Như một nhà vĩ nhân xưa từng nói: “Tôi sẵn sàng đánh đổi toàn bộ sự nghiệp nếu biết ở đâu đó trong ngôi nhà kia, có một người vợ luôn chờ tôi về ăn bữa tối”.
Khát khao tình yêu, khát khao hạnh phúc, và giờ đây Tràng đã có được. Ai bảo cứ Rô-mê-ô và Ju-li-ét mới là tình yêu? Dẫu cho người đàn ông kia có thô kệch, nghèo nàn, dẫu cho người đàn bà kia có rách nát “như tổ đỉa” thì đó vẫn là tình yêu. Họ vẫn lo lắng, quan tâm nhau, tôn trọng nhau đó thôi. Người có khao khát hạnh phúc xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Chính niềm khao khát cháy bỏng ấy đã xua tan đi mọi “u tối, hốc hác, bủng beo” của cuộc sống bụi bặm, xua đi cái lạnh lẽo của nạn đói tử thần năm 1945.
Xây dựng thành công nhân vật Tràng, Nhà văn đã vận dụng thành công đặc trưng thể loại truyện ngắn: Cốt truyện đơn giản nhưng nhiều chi tiết nghệ thuật sắc nét, đa nghĩa. Bút pháp miêu tả tâm lý tài tình, bắt nhạy từng chuyển biến trong tâm trạng nhân vật. Ngôn ngữ cá thể hóa cao độ mang đến sự giản dị, gần gũi của làng quê Việt Nam… Qua “vỏ mỏng” nhưng Kim Lân đã dựng được một lớp “lõi dày” cho tác phẩm. Hình tượng nhân vật Tràng chính là tấm chìa khóa mở ra tư tưởng của toàn bộ câu chuyện, nhà văn như muốn nói: Dẫu cho hoàn cảnh có đè nén, có “bèo bọt hóa” con người, nhưng con người vẫn không chịu làm kiếp bèo bọt mà vẫn kiên nhẫn làm Người. Những người đói, họ không nghĩ đến cái đói mà nghĩ đến cái sống. Xuất thân trong cái cảnh chết chóc nhưng sự sống vẫn kiên định chống chọi. “Sự sống chưa bao giờ chán nản” (Xuân Diệu), sự sống vươn lên trên cái chết, sự sống chiến thắng cái chết. Đó chính là thông điệp nhân sinh sâu sắc nhất mà Kim Lân muốn mang đến cho chúng ta qua nhân vật Tràng.
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên từng nói: “Thời gian có thể phủ bụi một số thứ, Nhưng có những thứ càng rời xa thời gian, càng sáng, càng đẹp”. Tôi cho rằng “Vợ nhặt” của Kim Lân là một tác phẩm như thế. Ra đời cách đây gần nửa thế kỉ nhưng sức sống của nó vẫn sẽ tồn tại đến muôn đời.
Cảm nhận nhân vật Tràng – Mẫu 4
Kim Lân nhà văn thường viết về người nông dân, truyện ngắn Vợ nhặt mang giá trị tư tưởng nhân đạo lớn dù cuộc sống nghèo khổ, cơ cực nhưng vẫn yêu thương đùm bọc nhau. Trong đó nhân vật Tràng là một trong những con người tốt bụng, nhân hậu.
Truyện Vợ nhặt được tác giả viết vào thời điểm khi mà nạn đói đang hoành hành dữ dội và cướp đi mạng sống của rất nhiều người. Tràng và gia đình của mình cũng đang vật lộn để mưu sinh.
Trong truyện nhân vật Tràng được tác giả miêu tả với bề ngoài xấu xí, thô kệch, nghèo khó, rách rưới. Anh Tràng làm nghề kéo xe bò thuê. Tràng có đủ các yếu tố để trở nên ế vợ. Điều làm cả xóm bất ngờ đó chính là Tràng có vợ mà là vợ nhặt, ai cũng ngạc nhiên và xen lẫn lo lắng khi thời buổi này nuôi thêm người sẽ túng quẫn hơn.
Tràng và gặp người vợ của mình khi thấy cô ta sắp chết đói, với lòng nhân hậu Tràng cho ăn và quyết định cưu mang về làm vợ. Bắt đầu từ đây diễn biến tâm lý của nhân vật có nhiều thay đổi từ suy nghĩ ăn uống không có mà còn đèo bòng cho đến “chậc, kệ”, anh mong muốn một mái ấm gia đình nhiều hơn là lo sợ về cái đói trước mắt.Lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc của nhân vật này đã lấn áp nghịch cảnh đen tối.
Từ một kẻ xấu xí, thô kệch nay đã có vợ, Tràng có nhiều sự thay đổi đáng kể, “Tràng quên hết cảnh sống ê chè, tăm tối phía trước”, “trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”, sau khi cưới trong lòng thấy khác lạ nhà cửa, sân vườn sạch sẽ, mẹ và nàng dâu cùng nhau làm lụng sự đoàn kết yêu thương nhau làm cậu ấm lòng. Giờ đây nhân vật Tràng thấu hiểu được giá trị của tình cảm gia đình trọn vẹn, Tràng càng yêu vợ và thấy có trách nhiệm với mẹ. Trong cảnh ngặt nghèo của cuộc sống những con người như Tràng vẫn hướng đến tình cảm gia đình, đùm bọc, che chở người thân vượt qua ranh giới sống chết.
Hình ảnh cảm động nhất có thể kể đến là cả nhà cùng ăn nồi cháo cám đắng ngắt, khó nuốt nhưng cả nhà vẫn vui vẻ ăn ngon lành. Tràng hiểu rõ tình cảnh hiện tại và bằng lòng với nghèo khổ để hướng đến hạnh phúc, sự nghèo đói không thể ngăn con người khát khao hạnh phúc.
Nhân vật Tràng được tác giả tập trung miêu tả trước trong và sau khi lấy vợ, diễn biến tâm lý thay đổi thể hiện nhân phẩm của nhân vật dù nghèo đói, bần hàn nhưng vẫn yêu thương,đùm bọc nhau và khát khao hạnh phúc gia đình như bao con người khác.
Cảm nhận về nhân vật Tràng – Mẫu 5
Kim Lân viết văn từ trước Cách mạng, ông chuyên viết về đề tài nông thôn và người nông dân. Lấy bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim Lân đã cho ra đời tác phẩm “Vợ nhặt” để cho thấy sự cùng cực, nghèo đói cũng như niềm hạnh phúc bình dị của người nông dân đương thời. Trong đó, cách miêu tả tâm lý nhân vật Tràng đã giúp Kim Lân hoàn thành được một nửa ý đồ của mình và gửi đến người đọc bao thế hệ những giá trị nhân văn sâu sắc, có sức sống trường tồn cùng thời gian và không gian.
Tràng là một trong hai nhân vật chính của truyện (ngoài Tràng còn vợ nhặt), anh chính là người “nhặt” được vợ. Qua nhân vật này, ta hiểu hơn về người nông dân nơi làng quê ngày xưa về những phẩm chất tốt đẹp và suy nghĩ giản đơn, chân chất vốn có.
Kim Lân miêu tả khiến Tràng như một gã đàn ông được đẽo gọt sơ sài: cặp mắt ti hí, quai hàm bạnh ra, lưng vậm vạp như lưng gấu, đầu trọc nhẵn lại vừa đi vừa nói lảm nhảm những điều chỉ có anh ta hiểu. Đã thế lại còn nghèo và là dân ngụ cư (ngày xưa dân ngụ cư thường bị khinh rẻ) nên không ai thèm để ý cả. Vậy mà trong nạn đói 1945 lại có người theo không về nhà. Kim Lân đã miêu tả tinh tế diễn biến tâm trạng nhân vật trước biến cố ấy của cuộc đời.
Khi người đàn bà vợ nhặt biến lời nói đùa của Tràng thành lời nói thật “…có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.” thì Tràng lo lắng (chợn nghĩ) “thóc gạo đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng” vì dẫu có vô tư đến mấy thì chàng cũng không thể vô lo. Xác chết đầy đường, Tràng nuôi mình và mẹ đã khó, nay thêm người là thêm một miệng ăn. Nhưng rồi Tràng lại tặc lưỡi:”Chậc, kệ!” rồi quyết định dắt người đàn bà về, đó chính là khao khát về một gia đình hạnh phúc cách cháy bỏng của Tràng.
Trên đường dắt vợ về nhà, Tràng tỏ ra khoái chí lắm vì vừa có vợ cách nhưng không, lại vừa nhận được cái nhìn ngạc nhiên lẫn ngưỡng mộ của bao nhiêu người hàng xóm, anh “tủm tỉm cười” còn đôi mắt thì “sáng lên lấp lánh”. Tác giả mượn điểm nhìn là người dân xóm ngụ cư vì chỉ có họ mới phát hiện được sự khác lạ hôm nay của Tràng, mọi hôm hắn về có một mình nhưng hôm nay lại dắt thêm một người đàn bà khác về chung.
Mạch truyện “Vợ nhặt” là một chuỗi ngạc nhiên, khi Tràng dắt vợ về thì cả xóm ngạc nhiên, tiếp đó là bà cụ Tứ (mẹ Tràng) ngạc nhiên đến mức không tin nổi vào mắt mình. Song đáng nói hơn cả là Tràng, người trong cuộc mà không khỏi ngạc nhiên, dắt vợ về rồi mà vẫn còn “đứng tây ngây giữa nhà một lúc”, đến sáng hôm sau vẫn còn “ngỡ ngàng”.
Khi đã có vợ và một gia đình thực thụ thì Tràng được sống trong tâm trạng lâng lâng sảng khoái như từ giấc mơ đi ra. Mái ấm gia đình đã nhen lên trong Tràng khát vọng tốt đẹp của con người: sống có trách nhiệm hơn với gia đình, nghiêm túc như một người đàn ông thực thụ, một người chủ gia đình.
Bằng cách xây dựng tình huống truyện bất ngờ nhưng hợp lý, nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo và sử dụng khẩu ngữ trong truyện, Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật Tràng để thể hiện chất riêng của mình.
Nảy sinh trên mảnh đất chết chóc nhưng sự sống không bao giờ bị tuyệt diệt, vẫn vươn ra phía trước cách mạnh mẽ, Tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Tô Hoài là bài ca về sự sống. Đó cũng là ý nghĩa nhân văn sâu sắc của truyện ngắn này. Thời gian có chảy trôi, vạn vật có đổi thay, nhưng những tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ còn mãi với bạn đọc muôn đời, vượt qua mọi quy luật băng hoại của tạo hóa. Truyện ngắn này đã làm được điều đó và cũng chính vì lẽ đó mà chúng ta, bạn đọc ngày hôm nay, vẫn không ngừng tìm kiếm và sẵn sàng đón đọc những đứa con tinh thần của người truyền lửa – Tô Hoài.
Cảm nhận về nhân vật Tràng – Mẫu 6
Kim Lân là nhà văn có sở trường về những người nông dân, nông thôn trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến tác phẩm Vợ nhặt. Vợ nhặt là bức tranh chân thực về nạn đói năm 1945, thế nhưng, giữa sự lay lắt đói khát ấy, người ta lại thấy le lói thứ ánh sáng của sự yêu thương, đùm bọc, của sự san sẻ, khát khao hạnh phúc cùng hướng về sự sống của con người. Thông qua hình tượng nhân vật Tràng, ta có thể thấy được vẻ đẹp của tình thương cùng sức sống mãnh liệt bên trong con người trong nạn đói.
Vợ nhặt được in trong tập Con chó xấu xí năm 1962, nghĩa là sau nạn đói 1945 không lâu. Thiên truyện là sự dung hòa của giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo, tất cả được biểu hiện qua nhân vật Tràng.
Nói tới Tràng, người ta nhắc tới một con người mà cả ngoại hình hay tính cách, gia cảnh đều thuộc hạng “cùng đinh”. Về ngoại hình, người ta thấy Tràng là một anh chàng vừa thô kệch vừa xấu xí “cái mặt thô kệch”, “đôi mắt nhỏ tí”, “thân hình to lớn vập vạp”, “cái lưng to rộng như lưng gấu”. Không chỉ thế, Tràng còn là người dân xóm ngụ cư sống bằng nghề kéo thóc thuê, ngôi nhà của mẹ con Tràng lụp xụp, rách nát xung quanh mọc đầy cỏ dại . Đến tài ăn nói, Tràng cũng không có, Tràng chỉ biết nói thô lỗ, cộc cằn, lại còn cái tật “vừa đi vừa nói”, “lảm nhảm những điều hắn nghĩ”. Với những điều này, thật khó để Tràng có được một người vợ ngay cả trong điều kiện thường, càng trở nên xa vời khi nạn đói xảy ra.
Thế nhưng, cuộc đời không khỏi có những bất ngờ, Tràng nghèo đến vậy, lại xấu xi đến thế, lại đang giữa những năm tháng đói khát ấy thế mà Tràng lại có “vợ”, thậm chí là “nhặt” được vợ. Thật quá bất ngờ!
Tình huống ấy xảy ra khi Tràng kéo xe thóc đi qua và gặp Thị đang ngồi bên lề đường chờ “nhặt hạt rơi vãi”. Lúc ấy, hắn chỉ chợt “hò một câu cho đỡ nhọc” rằng: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”, dứt câu thì Thị đã “ton ton” chạy ra đẩy xe với Tràng, còn “liếc mắt, cười tít” với hắn. Chính điều đó đã làm Tràng ấn tượng với Thị, bởi “từ cha sinh mẹ để đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ thế”.
Qua thời gian sau, hắn gặp lại Thị, nhưng lúc ấy Thị đã gầy guộc, tiều tụy hơn” áo quần tơi như tổ đỉa, Thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Thị đã “sưng sỉa” lên với Tràng, đòi Tràng mời ăn, nhận được sự đồng ý của Tràng, Thị đã “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”. Trong cuộc gặp gỡ tình cờ ấy, Tràng đùa với Thị rằng: “Này nói đùa có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Ấy vậy mà Thị theo Tràng về thật. Chỉ với hai lần gặp, bốn bát bánh đúc, cùng câu nói nửa đùa nửa thật của hắn, hắn đã có “vợ”.
Câu nói của Tràng là đùa, nhưng ẩn chứa trong đó là khao khát có được mái ấm của riêng mình, khao khát tình yêu và hạnh phúc, và Thị có lẽ chính là người giúp hắn được điều ấy.
Hắn nói đùa mà Thị thì đồng ý thật, đến lúc ấy hắn mới “chợn” nghĩ: “Thóc gạo này đến thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Thế nhưng “sau không biết nghĩ thế nào”, liệu có phải là cái khao khát hạnh phúc trong lòng hắn bừng lên mà hắn “chặc lưỡi một cái: chậc, kệ” hay chăng?
Tràng và Thị đến với nhau giữa lúc cái đói đang hoành hành khắp nơi, “người chết như ngả rạ”. Biết rõ rằng đến với nhau là một gánh nặng giữa lúc đói khát này, thế nhưng anh chàng Tràng lại rất vui vẻ đón nhận, sẵn sàng san sẻ sự sống vốn đã ít ỏi cho Thị. Bởi trong lòng anh luôn khao khát hạnh phúc, khao khát về mái ấm đã len lỏi trong anh từ rất lâu rồi, và giờ đây, nó có thể đã trở thành hiện thực.
Trên đường Tràng và Thị trở về, niềm vui hiện rõ trên mặt Tràng, hắn hớn hở “có một vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”, khác hẳn với hình ảnh “đi từng bước mệt mỏi” như ngày trước. Trong niềm vui ấy, Tràng đã quên đi hết tất cả, “quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những ngày tháng trước mắt”, bởi trong lòng hắn chỉ có niềm hạnh phúc và “tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi bên”. Cái cảm giác ấy mơn man da thịt hắn, “tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng” hắn, mà hắn chưa bao giờ cảm nhận được. Tràng không định nghĩa được nó, nhưng niềm vui sướng thì hiện rõ trên gương mặt, tràn ngập trong tâm hồn hắn, khiến hắn “thích chí ngửa cổ cười khanh khách”. Cái cảm giác hạnh phúc, niềm vui khi có gia đình, có được một người vợ để yêu thương, hắn chưa từng được hưởng cái cảm giác sung sướng, hạnh phúc ấy một lần.
Đến khi về tới nhà, lần đầu tiên trong đời, ở chính trong căn nhà mình, hắn lại trở nên ngượng nghịu, lúng túng, hắn gắt lên khi bà cụ Tứ – mẹ hắn đi đâu về muộn. Hắn còn cảm thấy “sờ sợ”, mà “chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ”. Ở người đàn ông này, ta cảm nhận được những thái cực trái ngược sau khi anh ta “nhặt” vợ. Cảm giác vui sướng, nhưng cũng lo sợ, hạnh phúc nhưng cũng lo lắng, anh vui bởi lẽ cái niềm khao khát bấy lâu của mình đã thành hiện thực, còn lo lắng bởi lẽ anh không biết cái đói sẽ còn hành hạ con người ta đến bao giờ, liệu họ có còn sống qua cái giai đoạn này chăng?
Bao nhiêu lo lắng, hỗn độn trong tâm trí người đàn ông ấy, hắn còn chưa thật sự tin rằng hắn đã có vợ. Hắn còn đang mơ màng, còn “ngờ ngợ như không phải thế”. Phải chăng niềm vui quá bất ngờ khiến Tràng chưa thể nào tin ngay được điều đó? Đến khi nói chuyện với mẹ, được bà cụ dặn dò, Tràng cũng vâng dạ vô cùng ngoan ngoãn – những điều mà lần đầu tiên có được trong ngôi nhà ấy.
Kim Lân đã khéo léo dựng lên một tình huống éo le nhưng cũng thật bất ngờ, rất hợp lý, bao hàm cả giá trị nhân đạo và giá trị nội dung sâu sắc. Đây chính là sự yêu thương mà Kim Lân dành đến cho những người nông dân nghèo, những người lao động chất phác.
Sáng hôm sau, hắn tỉnh dậy khi “mặt trời lên bằng con sào”, thế nhưng, hắn không thấy sự mệt mỏi mà chỉ thấy “trong người êm ái, lơ lửng như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Niềm hạnh phúc với hắn dường như vẫn còn mơ hồ, niềm vui có vợ, có gia đình khiến hắn “vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”.
Lần đầu tiên Tràng nhận ra ngôi nhà của mình thực sự là một mái ấm chở che cuộc đời con người, hắn chợt thấy mình có trách nhiệm hơn, trở nên thâm trầm sâu sắc hơn “Bỗng nhiên hắn thấy cần có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Từ bao giờ, Tràng đã nghĩ tới những việc xa hơn, có con cái, có gia đình êm ấm, hạnh phúc? Điều ấy càng khiến trong lòng hắn vui hơn bao giờ hết!
Bữa cơm đầu tiên của nhà ba người, hắn bỗng trở thành đứa con ngoan khi bà cụ Tứ nhắc tới tương lai, một tương lai mà họ có đàn gà, tương lai sáng sủa, tốt đẹp hơn. Lúc ấy, “Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm , hoà hợp như thế”. Sự xuất hiện của Thị trong đời Tràng đã biến đổi con người hắn, biến hắn trở thành một người con ngoan, một người chồng có trách nhiệm. Mặc dù là bữa cơm đầu của người con dâu, thể nhưng cùng chỉ là cháo loãng, là món “chè khoán” bằng “cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”.
Tiếng trống thúc thuế vọng lại khiến Tràng giật mình, hắn “thần mặt ra nghĩ ngợi” khi thấy vợ nói rằng “ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không chịu đóng thuế nữa đâu”. Hắn cũng nghĩ tới những người đi phá kho thóc Nhật mà hắn đã từng gặp trên đường đi kéo thóc, “tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu”. Đây phải chăng là những nhem nhó đầu tiên của ý thức Cách mạng mà Kim Lân muốn đưa vào trong tác phẩm của mình?
Kim Lân đã dựng lên hình tượng người lao động nghèo trong nạn đói 1945 vô cùng xuất sắc. Ông đã tái hiện bức tranh chân thực nhất về nạn đói khiến hai triệu đồng bào ta phải chết, những người sống phải vật vờ như những bóng ma. Diễn biến nhân vật Tràng cũng được thể hiện rất sinh động, rất chân thật.
Tràng là nhân vật điển hình cho những người lao động nghèo trong nạn đói 1945. Họ nghèo đói về vật chất, nhưng không hề nghèo đói về tình thương. Họ sẵn sàng san sẻ cho người khác, đùn bọc những người yếu đuối hơn để cùng nhau hướng tới một tương lai tươi sáng hơn.
Cảm nhận về nhân vật Tràng – Mẫu 7
Số phận người nông dân trong xã hội luôn là nguồn cảm hứng sáng tác cho những nhà văn. Ở người nông dân luôn có những nét bình dị chất phác lại vừa thay mặt đại diện tiêu biểu cho tính cách con người Việt Nam – chịu thương, chịu khó, cần cù và nhân hậu. Tuy vậy, họ lại là đối tượng người sử dụng chịu nhiều áp bức bất công. Cũng bởi vậy, không biết từ bao giờ người nông dân đã nhận được được sự quan tâm của những người dân nghệ sĩ. Đó là hình ảnh chị Dậu tuy rơi vào hoàn cảnh khốn khó nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp nhân cách trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, là Chí Phèo rơi vào thảm kịch tha hóa nhưng vẫn còn chút lương tri khát khao hướng thiện trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao. Và đó còn là một anh Tràng ngờ nghệch nhưng giàu tình yêu thương trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Tràng là người dân ngụ cư nghèo. Nghĩa là Tràng thuộc tầng lớp mặt đáy xã hội, thuộc hạng cùng đinh lúc bấy giờ. Tràng cũng không có công việc ổn định, anh làm nghèo đẩy xe bò mướn. Từ công việc ấy, ta cũng thấy được cuộc sống của Tràng cũng vất vả, không khấm khá được bao nhiêu.
Không có vị thế xã hội, không có công việc ổn định, trong cả ngoại hình của không khởi sắc nổi bật. Tràng có ngoại hình bình thường nếu không muốn nói là thô kệch. Nhà cửa luôn “vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi có dại”. Cảm nhận về nhân vật Tràng ta còn thấy sau tấm phên rách rưới nát là “niêu bát, sống áo vứt bừa bộn cả trên giường dưới đất”, cuộc sống cập kênh hiện nay đang bị cái đói rình rập đe dọa.
Nhà văn Kim Lân qua tình huống truyện đặc sắc đã “ đặt nhân vật kề bên nanh vuốt của cái chết ” (Nguyễn Đăng Mạnh) để nhân vật tự tỏa sáng từ chính hoàn cảnh éo le của mình. Cuộc đời Tràng là một số không tròn trĩnh, mọi thứ diễn ra mang tính tạm bợ, qua ngày qua tháng. Hoàn cảnh ấy còn bi thảm hơn trong những ngày đói. Một không khí u ám tiêu điều. Xung quanh nơi xóm ngụ cư, Tràng trong nhà cửa thì “úp úp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa”, “tối sầm lại vì đói khát” . Trong “không khí vẩn lên vì mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi ngây của xác người” , thì những thanh âm đáng sợ thê lương vang lên.
Đó là tiếng quạ “ cứ gào lên từng hồi thê thiết ”, tiếng hờ khóc tỉ tê của những gia đình có người chết đói. Người đói khắp nơi “lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, “nằm ngổn ngang khắp liều chợ”. Người “chết như ngả rạ”, không sáng nào “không lại gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường”, “bóng những người dân đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma ấy”.
Phân tích và cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy cuộc sống của nhân vật này vốn đã khó khăn nay lại càng khó khăn hơn gấp bội bởi nạn đói. Tràng cũng như những người dân dân khác trong xóm ngụ cư vẫn tiếp tục lê lết từng ngày từng ngày trong nạn đói ấy. Họ đang mong đợi cái chết hay mong đợi một tươi lai tương lai, ta cũng không biết nữa. Hoàn cảnh ấy đã tô đậm hiện thực cuộc sống người dân nghèo trong nạn đói 1945, thể hiện sự cảm thông thâm thúy của nhà văn dành riêng cho những kiếp người nghèo khổ lầm than. Thế nhưng, hoàn cảnh ấy còn góp phần thể hiện vẻ đẹp của Tràng – giàu tình yêu thương và lòng vị tha.
Nhà văn Thạch Lam từng nhận định rằng “ Cái đẹp nằm trong cuộc sống. Cái đẹp len lỏi khắp các hang cùng ngõ hẻm, cái đẹp ở những chỗ không có bất kì ai ngờ tới, và cái đẹp tiềm tàng che lấp đi sự vật ”. Phân tích và cảm nhận về nhân vật Tràng, người đọc cũng nhận ra bên lề sự ngờ nghệch, bên lề cuộc sống túng quẫn khi bị cái đói rình rập đến tận cùng thì Tràng cũng như những người dân nông dân khác vẫn luôn ánh lên vẻ đẹp của sự việc chất phác, giàu niềm tin và hi vọng.
Giữa lúc đói, anh vẫn sẵn sàng đãi người đàn bà xa lạ bốn bát bánh đúc khi chỉ biết người đàn bà ấy qua vài câu nói đùa tầm phơ tầm phào mà thôi. Tràng đã quyết định nuôi nấng cô gái cưới cô về làm vợ. Tràng còn đưa cô ra chợ mua vài thứ lặt vặt rồi dắt cô về nhà.
Khi cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy Tràng đã đồng ý nuôi người phụ nữ, dù lúc đầu anh nghĩ “đến cái thân tôi cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”, dù vẫn có những lo sợ cho cuộc sống quá cập kênh, khó khăn nhưng cuối cùng anh chỉ “tặc lưỡi một chiếc: Chậc, kệ!” – cái chậc lưỡi muốn đánh cuộc một lần với cái đói để giành được một cuộc sống bình thường như bao người, cái chậc lưỡi sẵn sàng nuôi nấng người khác trong cơn hoạn nạn.
Việc Tràng lấy vợ vốn đã là một điều kỳ lạ. Kỳ lạ hơn, Tràng lại quyết định lấy vợ trong hoàn cảnh gia đình đang khốn khó vì nghèo vì đói. Bản thân anh cũng phải làm lụng chạy vạy từng bữa tiệc, nay lại còn “đèo bòng” thêm người vợ nhặt. Họ sẽ sống thế nào và liệu có thể vượt qua được nạn đói đang rình rập đe dọa tính mạng của tất cả xóm ngụ cư hay là không?
Tuy ý thức được điều đó, nhưng Tràng vẫn bỏ qua mọi suy nghĩ về hiện tại nghèo khó về tương lai mịt mờ mà đi đến một quyết định không nhiều người làm được – nuôi nấng người phụ nữ xa lạ. Nếu không phải là một người dân có tấm lòng nhân hậu, sao Tràng có thể hào phóng đãi người đàn bà mới quen ấy một bữa tiệc, sao Tràng có thể đồng ý người đàn bà kia về chung sống với mình.
Tràng sống trong hoàn cảnh nghèo khó, túng thiếu, bị xem thương nên hơn ai hết Tràng hiểu được cảm giác của người vợ nhặt lúc bấy giờ – đồng ý bỏ qua danh dự chỉ bản thân để được một bữa tiệc no. Thấu hiểu và thông cảm cho tất cả những người phụ nữ là một trong những nguyên nhân dẫn đến hành động có vẻ lạ lùng này của Tràng. Nếu người ta đến với nhau bằng tình yêu nam nữ, thì trước hết Tràng và người phụ nữ xa lạ này lại đến với nhau bằng tình thương, tình người trong cơn hoạn nạn.
Nói theo một cách khi cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy nhân vật này như một chiếc phao cứu sinh cho tất cả những người vợ nhặt. Tràng đã làm một điều tốt mà ít người dân có thể làm được trong lúc mạng sống luôn bị rình rập đe dọa bởi nạn đói này nhưng Tràng không vênh váo vì điều đó hay cũng không cần báo đáp. Đó mới đây là vẻ đẹp của người nông dân nghèo. Tuy họ không có gì cả nhưng vẫn sẵn sàng cứu giúp người khác. Họ không cần ai tuyên dương vì việc làm tốt của mình. Tràng là hiện thân chân thật nhất của vẻ đẹp ấy.
Cảm nhận về nhân vật Tràng ta cũng thấy, câu nói nửa đùa nửa thật của anh với những người vợ nhặt đã và đang ẩn chứa niềm khát khao tổ ấm gia đình và anh đã đánh liều đưa một người đàn bà xa lạ về làm vợ. Tràng tuy ngờ nghệch nhưng đã có ý thức chăm sóc gia đình ngay từ khi chưa đưa vợ về nhà. Trước lúc đưa thị về, Tràng “đưa thị vào chợ tỉnh ném tiền ra mua cho thị vài cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt”.
Từ trong sâu thẳm tiềm thức, con người ấy vẫn khát khao được niềm sung sướng bất chấp sự rình rập đe dọa của cái đói cái chết đang chực chờ cướp đi tính mạng con người. Niềm khát khao ấy cũng đây là một nguồn động lực to lớn giúp con người vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống. Trên đường về nhà, xen lẫn với tâm trạng vui sướng là những hành động vụng về, lóng ngóng “mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường”, “tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”.
Khi cảm nhận về nhân vật Tràng ta cũng nhận thấy, từ khi ý thức thực được mình có vợ, Tràng như một con người khác. Nụ cười có vợ đã khiến Tràng quên đi nỗi lo lắng, không yên tâm với cuộc sống hiện tại. Nếu thường ngày, cái đói khiến bước tiến Tràng trở nên nặng nhọc và mệt mỏi thì hôm nay vẫn trên tuyến đường quen thuộc, vẫn lúc nạn đói đang diễn ra nhưng Tràng lại vô tư yêu đời hơn bao giờ hết… Trước con mắt tò mò của người dân xóm ngụ cư, Tràng không hề lúng túng bối rối mà ngược lại Tràng “thích lắm, cái mặt cứ vênh vênh như tự đắc với chính mình”. Tràng hãnh diện, niềm sung sướng với mình của hiện tại.
Tràng được tận hưởng thú vui mà trước đó chưa bao giờ anh dám nghĩ tới. Bởi lẽ, khi phân tích kĩ cũng như cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy không có cô gái nào lại đồng ý lấy một chàng trai ngờ nghệch không có nghề nghiệp ổn định lại là người dân xóm ngụ cư kia chứ. Nhưng những điều tưởng chừng không bao giờ diễn ra ấy lại xảy ra, cứ như trong một giấc mơ. Khi chờ mẹ về, anh ngượng nghịu lúng túng “Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, rồi chợt hắn thấy sờ sợ”.
Thậm chí là anh chưa dám tin chắc là tôi đã có vợ, khi niềm sung sướng đến quá bất ngờ thường khiến cho con người cảm thấy không chân thật “nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến thời điểm này hắn vẫn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đó ư?”. Khi Tràng giới thiệu vợ với mẹ “kìa nhà tôi nó chào u” nghe như có cái gì nỏ ruột nở gan, như một sự xác nhận rành rọt, một lời khẳng định chắc chắn về việc Tràng đã có vợ.
Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, khi thức dậy Tràng thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Ngôi nhà đã có những thay đổi – nhà cửa được dọn dẹp thật sạch tinh tươm “hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tanh bành ngay lối đi đã được hót sạch.”, mấy chiếc áo quần rách rưới bướm đã được đem ra phơi.
Mẹ thì rạng rỡ tươi tỉnh, vợ thì không còn vẻ chao chát, đanh đá. Khi cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy khi đứng trước những sự thay đổi ấy, Tràng cảm thấy thấm thía vô cùng, cảm động yêu thương và muốn gắn bó với gia đình đồng thời cũng thấy mình cần có trách nhiệm với gia đình “Bỗng nhiên hắn lại thấy hắn yêu thương và gắn bó với cái nhà đất của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ ở cái nơi ấy. Cái nhà như cái tổ ấm, che mưa che nắng. Lúc bấy giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận là phải lo lắng cho vợ con sau này.”.
Tràng đã xúc động vô cùng trước sự thay đổi của tòa nhà và vào giây phút ấy Tràng thấy mình trưởng thành nên người. Nụ cười sướng ấy còn gắn với ý thức về bổn phận trách nhiệm với gia đình nhỏ bé của mình. Từ một con người chỉ nghĩ đến việc làm thế nào để cho khỏi đói, làm thế nào sống qua được hết ngày hôm nay, Tràng đã bắt đầu suy nghĩ đến tương lai.
Tràng cũng nghĩ tới những sự đổi thay trong tương lai cho dù vẫn chưa tồn tại ý thức thật đầy đủ khi trong đầu hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới cùng với đoàn người phá kho thóc. Quả thật, tuy Tràng lấy vợ không có hình thức trang trọng nhưng lại rất nghiêm túc trong suy nghĩ về trách nhiệm, bổn phận của mình so với gia đình.
Vợ nhặt không chỉ phản ánh tình cảnh bi thảm của người dân lao động trong nạn đói khủng khiếp 1945, mà còn thể hiện tấm lòng của Kim Lân so với cuộc đời. Kim Lân đã đồng cảm xót thương cho số phận những người dân nghèo khổ, thấu hiểu và trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khát khao niềm sung sướng và niềm tin vào tươi lai tươi sáng của họ. Nhân vật Tràng chính vì vậy mà dễ dàng và đơn giản đi vào lòng người, để lại dấu ấn thâm thúy cho tất cả những người đọc về một chàng trai nhà nghèo, có vẻ khờ khạo nhưng giàu lòng yêu thương và đầy tốt bụng.