Contents
GIỚI THIỆU HỒ XUÂN HƯƠNG – CUỘC ĐỜI VÀ VĂN HỌC
Vị trí:
– Hồ Xuân Hương – một nữ sĩ tài năng và độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam, từng được thi sĩ Xuân Diệu tôn vinh là “Bà Chúa thơ Nôm”.
– Thơ của Xuân Hương đã góp phần làm cho đời sống văn học trở nên sôi nổi với hàng trăm bài viết, hàng trăm ý kiến khác nhau về thơ bà. Ý kiến về thơ của bà, đặc biệt là mảng thơ Nôm, dù khen hay chê, tất thảy đều mạnh mẽ, quyết liệt và thậm chí trái ngược nhau như nước với lửa. Thời gian trôi qua, những xúc cảm nóng bỏng và đầy tính nhân bản về những gì bà viết ở người đọc chuyển dần sang sự nghiền ngẫm kĩ lưỡng. Và người đời cũng đã đánh giá tài năng văn chương của Xuân Hương một cách khách quan hơn qua những trang viết thận trọng. Điều đó thật dễ hiểu khi tên tuổi của Hồ Xuân Hương được đặt cạnh thi hào Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…
– Hơn thế nữa, cái tên ấy đã vượt tầm biên giới tổ quốc để sánh vai cùng các thi sĩ đại tài, nổi tiếng trên thế giới khi thơ của bà được chọn dịch và giới thiệu ra nước ngoài. Nữ sĩ họ Hồ có được vị trí đặc biệt ấy trên văn đàn là bởi những tư tưởng, những vấn đề mà bà đã đề cập được soi sáng ở mọi thời điểm và vào lúc nào vấn đề đó cũng mới, cũng lạ, cũng gây hứng thú vô cùng cho người đọc. Những điều đó không nằm ngoài khát vọng của con người về hạnh phúc, về tình yêu… nhằm thỏa mãn mọi nhu cầu “tự nhiên”, rất “bản chất” của con người.
Tiểu sử và thời đại:
Tiểu sử:
- Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong lịch sử văn học dân tộc. Đối với người Việt Nam, tên tuổi của Hồ Xuân Hương quen thuộc không kém bất cứ một nhà thơ nào.
- Đáng tiếc là về cuộc đời của nữ sĩ, chúng ta được biết quá ít. Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi. Thậm chí có một vài ý kiến còn cho rằng những bài thơ được xem là của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sáng tác, nghĩa là không có ai thực sự là Hồ Xuân Hương.
- “Bà Chúa thơ Nôm” là “con của Hồ Phi Diễn (1706-1783), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An và một người thiếp quê ở Hải Dương”
- Năm sinh, năm mất, thân thế, cuộc đời, và thơ văn của bà đến nay vẫn còn vướng mắc nhiều nghi vấn. Ta chỉ biết bà sống vào thời Lê mạt Nguyễn sơ, người cùng thời với Nguyễn Du (1765-1820), Phạm Đình Hổ (tức Chiêu Hổ, 1768-1839). ( theo thống kê của nhiều tài liệu).
- Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã hội.
- Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn, các nhà nho. Nữ sĩ còn là người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.
- Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. (Nhưng theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì nữ sĩ có tới 3 đời chồng chứ không phải hai: Tổng Cóc, Ông Phủ Vĩnh Tường, và cuối cùng là quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiến).
Thời đại:
- Hồ Xuân Hương là thiên tài đặc biệt của dân tộc Việt Nam. Nàng xuất thân ở tầng lớp bình dân. Điều này có ý nghĩa quan trọng, nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tâm hồn của Xuân Hương bất rễ khá sâu ở đời sống văn nghệ bình dân. Bà không lạ gì với những câu hát, ca dao, tục ngữ, những truyện tiếu lâm, với những câu đố “thanh mà tục, tục mà thanh”. Xuân Hương chịu ảnh hưởng của cuộc sống bình dân nên khi làm thơ thì những cảnh vật, phong tục … của người bình dân hiện lên rõ nét trong thơ bà. Lối thơ tả sự vật diễn đạt tâm tình cũng như lối biểu hiện và phô diễn của nàng đều mang nặng dấu ấn sâu sắc của thể cách bình dân đó.
- Hồ Xuân Hương sống vào thời Lê Mạc, thời mà các nhà nho thường gọi là “phong hóa suy đồi, cương thường đảo ngược” thời dâm ác của chúa Trịnh Sâm và bè lũ, thời anh giết em, con giết cha, vợ giết chồng … thời đắc thắng của Nguyễn Huệ, của bình dân Việt Nam. Những thời loạn như thế, con người sống không có đảm bảo. Luật pháp, tôn giáo, lễ nghĩa … không đủ sức để che chở con người chống lại những tai họa bất ngờ. Con người chỉ còn biết nghĩ đến mình, nghĩ đến giờ phút hiện tại, nghĩ đến tối thiểu an ninh cho bản thân mình. Lòng khát sống, thèm hưởng thụ nảy nở. Trong các thứ hạnh phúc, chỉ có hạnh phúc vật chất là cái mà con người còn có thể hưởng được ít nhiều. Mặt khác vì không bị luật lệ, luân lý phong kiến ràng buộc nữa, cá nhân con người tự do đi tìm hạnh phúc theo sở thích, mặc dầu tự do ấy vẫn lên những lo sợ, hối hả, ê chề. Tuổi thanh niên của Hồ Xuân Hương phải sống hoàn toàn trong xã hội suy đọa ấy. Lòng khát sống, thèm hạnh phúc ở người đàn bà phiêu lưu đó, kết tinh lại thành một ham muốn hạnh phúc lứa đôi sôi nổi. Đời Hồ Xuân Hương chỉ là một sự tìm chồng. Lẽ dĩ nhiên, trong sự kết tinh ấy, tính chất đặc biệt của cơ thể nàng, của di truyền cũng có tham dự một phần khá lớn. Trong một thời đại mà phong kiến suy đồi như thế thì người đàn bà sống một cuộc đời như thế làm sao tránh được ảnh hưởng của hoàn cảnh về phương diện phát triển tình cảm. Cái hình ảnh một thiếu nữ dâm đảng, xuân tình sớm động chạy theo mộng ước lứa đôi tràn trụa những nét nhục dục, hưởng khoái lạc xác thịt đến đã đời, rồi chấn chường, rên xiết, ai oán vì bất mãn – tôi muốn nói đến cô Kiều của Nguyễn Du – hình ảnh đó cũng được cấu tạo trong thực tế của thời Xuân Hương. Nó đã phần nào phản ánh một cái có thực trong xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII.
- Tâm hồn phóng đãng, tính nết lăng tằng, đời sống lung tung của Xuân Hương đã ngẹt thở trong trạng thái xã hội phong kiến khôi phục ấy. Trong thơ bà thường có những bài buồn bã ủ ê, thương thân, trách đời, tiếc xuân, nhớ mộng ( Oán hận trông ra khắp mọi chòm), đó là dấu vết của thời kỳ này. Nhưng Hồ Xuân Hương không phải là một tâm hồn đành chịu sự đè nén của xã hội. Nàng đã vùng dậy chống lại. Những bài thơ chứa những ý tưởng làm rợn tóc gáy các nhà Nho “thị thập tứ hiếu” (không có nhưng mà có mới ngoan), là sự phát hiện của sức sống chống đối cực đoan ấy.
- Thơ Hồ Xuân Hương là một chuỗi tiếng ấm ức, oán hận, nguyền rủa của một con người giàu sức sống bị kìm hãm, yếu nhưng không chịu thua, ngã vẫn không chịu đầu hàng kỷ luật phong kiến. Thơ Xuân Hương là sự đòi quyền sống của con người trong một chế độ áp bức con người, giày xéo con người. Hồ Xuân Hương là hiện thân của sự đòi quyền sống- nhất là quyền hưởng tình yêu và nhục dục. Những con người sung sức ấy là kẻ thù của lễ giáo phong kiến. Hiện tượng Hồ Xuân Hương về phương diện tâm lý là cái mầm hủy thể rất sâu sắc cái ý thức chống phong kiến ở địa hạt tình cảm và sinh lý của bình dân Việt Nam, của những tầng lớp nghèo khổ bị áp bức trong xã hội xưa.
- Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời phong kiến mà bà đã có một cuộc sống đầy sóng gió.
Sự nghiệp sáng tác và những đánh giá về thơ Hồ Xuân Hương:
Sự nghiệp sáng tác:
- Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những bài thơ chữ Nôm truyền miệng.
- Lưu Hương Kí: là tập thơ có nội dung tình yêu gia đình, đất nước, nó không thể hiện rõ cá tính mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương, cho nên, việc nghiên cứu giá trị thơ Hồ Xuân Hương chủ yếu được thực hiện trên những bài thơ Nôm truyền tụng của bà. Giáo trình văn học của Đại học Cần Thơ nhận định:
“…tập thơ “Lưu hương ký” mang bút danh của nữ sĩ do ông Trần Thanh Mại phát hiện vào năm 1964 gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm. Với một nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ viết về tâm sự và những mối tình của mình với những người bạn trai.
Đọc kĩ người ta thấy có một khoảng cách khá xa giữa tập thơ Nôm của Xuân Hương và “Lưu hương ký”, chủ yếu là về phong cách biểu hiện. Trong Lưu Hương Ký có cả thơ chữ Hán lẫn thơ chữ Nôm. Riêng phần thơ chữ Nôm trong “Lưu hương ký” nếu so sánh với thơ lâu nay được coi là của Xuân Hương thì hai bên vẫn có sự khác nhau. Thơ cữ Nôm trong “Lưu hương ký” có rất nhiều từ Hán Việt, giọng thơ lại hiền lành chứ không góc cạnh, gân guốc như ở Xuân Hương thi tập. Vì lý do trên, để bảo đảm tính khoa học, các nhà nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại ở tập thơ Nôm còn “Lưu hương ký” được coi là một tập thơ để tham khảo.”
- Cách tả cảnh, tả tình, cách dùng từ… trong thơ Nôm của bà có một không hai, vô cùng sống động và đặc sắc. Xuân Diệu đánh giá thơ Hồ Xuân Hương là “tót vời của nguồn thơ nôm na bình dân”.
- Xuân Hương là một nữ sĩ có thiên tài và giàu tình cảm, nhưng “vì số phận hẩm hiu, thân thế long đong, nên trong thơ của bà hoặc có ý lẳng lơ, hoặc có giọng mỉa mai, nhưng bài nào cũng chứa chan tình tự”.
- Thơ Xuân Hương cũng rắc rối, phức tạp như chính cuộc đời bà. Số bài thơ còn lại cho đến nay chủ yếu nhờ vào sự lưu truyền, bảo vệ của nhân dân nên có nhiều dị bản.
- Xuân Hương thi tập là tập thơ khá nổi tiếng của Hồ Xuân Hương, dù rằng đây là tập thơ Nôm do giáo sư Nguyễn Lộc sưu tầm, tập hợp và biên soạn lại với tính chính xác, nhất quán không phải là tuyệt đối nhưng so với các bản khác thì có thể nói đây là tuyển tập tương đối đầy đủ, khách quan và khoa học nhấXuân Hương thi tập nói chung là một tập thơ Nôm luật Đường. Bà Huyện Thanh Quan cũng chỉ làm thơ luật Đường. Về sau Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương … đã làm rất nhiều thơ Nôm luật Đường. Dòng thơ luật này đã tạo thành một thể loại lớn mạnh. Tuy nhiên thì so trước nhìn sau, mọi người đều thừa nhận rằng thơ Hồ Xuân Hương là rực rỡ nhất vì hình thức thơ đẹp hơn, dân tộc hơn và đại chúng hơn cả. Xuân Diệu đã nêu nhận xét rất đúng và rất hay “Xuân Hương chỉ chuyên dùng thể thơ thất ngôn luật Đường thế mà không phút nào ta nghĩ rằng đó là một điệu thơ nhập nội, thơ Xuân Hương cứ nôm na, bình dân, tự nhiên, lời cứ trong veo không gợn, đọc cứ thoải mái dễ thuộc, những câu đối nhau thì cân chỉnh già giặn đến ai cũng phải sợ mà vẫn như lời nói thường”
- Tập thơ gồm 40 bài, số lượng bài tuy không nhiều nhưn.g nội dung của tập thơ khá phong phú. Mỗi vần thơ có thể nói là một phần tâm hồn, con người của tác giả. Nội dung thơ Xuân Hương tuy không phải là tiếng nói đại diện của cả một giai đoạn nhưng cũng đã chứa đựng được những giá trị tư tưởng sâu sắc.
- Có thế nói “Sự nghiệp của Hồ Xuân Hương là ngọn hải đăng” như lời đề tựa thứ hai của tuyển tập Hồ Xuân Hươngbằng tiếng Pháp.
Đánh giá, nhận xét và quan điểm tiếp nhận thơ Hồ Xuân Hương:
- Hồ Xuân Hương với tài thơ độc đáo đã trở thành một “trung tâm” thu hút biết bao nhiêu thế hệ nhà nghiên cứu và các độc giả yêu quý Xuân Hương cũng như thơ bà vào cuộc kiếm tìm, vì vậy mà thân thế và thi tài của bà liên tục được định giá lại. Nghiên cứu về con người và thơ Hồ Xuân Hương đã như một vấn đề thời sự văn học. Thơ Nôm Hồ Xuân Hương đã được giới nghiên cứu tiếp nhận ở nhiều góc độ như phê bình văn học, tiếp nhận văn học, nhiều khuynh hướng như phân tâm học, văn bản học, xã hội học, văn hóa học… Qua các công trình nghiên cứu về Hồ Xuân Hương, từ trước đến nay, chúng ta nhận thấy, việc đánh giá về thơ Hồ Xuân Hương đã diễn ra rất phức tạp. Riêng việc tiếp cận thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc độ giới tính thì chưa thật nhiều, các ý kiến chủ yếu xoay quanh vấn đề dâm, tục trong thơ bà.
- Trước hết phải kể đến Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu, đầu những năm hai mươi của thế kỉ XX, phê bình “Thơ Hồ Xuân Hương thật tinh quái, những câu thơ hay đọc lên đến ghê người. Người ta thường có câu: “Thi trung hữu hoạ”. Nghĩa là trong thơ có vẽ. Nhưng thơ Hồ Xuân Hương thì lại là: “Thi trung hữu quỷ”. Nghĩa là trong thơ có ma! Song mà nhận ra thời tục”. Như thế, Tản Đà đã khẳng định có yếu tố “tục” trong thơ Xuân Hương.
- Đến Trương Tửu thấy trong thơ Hồ Xuân Hương chỉ có thuần tục và dâm, ngoài ra không có gì khác. Trương Tửu còn gọi Xuân Hương là «thiên tài hiếu dâm ». Trương Tửu cho rằng trong thơ Hồ Xuân Hương có những “khát vọng tiềm thức” và những “ám ảnh”, bệnh thần kinh vì dục tình không được thoả mãn.
- Sau đó, Nguyễn Văn Hanh đã phát triển quan điểm của Trương Tửu dựa trên quan điểm của học thuyết phân tâm học (Freud). Trong tác phẩm Hồ Xuân Hương, tác phẩm, thân thế và văn tài, Nguyễn Văn Hanh viết: “Dục tình ngày càng tăng, càng nén lại càng bồng bột. Ngày qua tháng qua, sức ép tình dục càng tăng vì sự cần kia càng khẩn cấp. Kết quả: Hồ Xuân Hương khủng hoảng tình dục. Khủng hoảng nặng sẽ kết bệnh thần kinh”. Nguyễn Văn Hanh đã thông qua thơ ca để tái hiện lại cuộc đời, con người Hồ Xuân Hương, từ đó ông rút ra kết luận là Hồ Xuân Hương bị khủng hoảng tình dục. Nhà nghiên cứu này đã đi sâu, lí giải cội nguồn hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương từ bên trong, qua sự uẩn ức tâm lý.
- Tiếp cận thơ Nôm Hồ Xuân Hương theo hướng này còn có Văn Tân, trong bài Ý nghĩa và giá trị thơ Hồ Xuân Hương trích quyển: Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học và giáo dục, Văn Tân có đặt vấn đề tục dâm, nhưng khi phân tích, Văn Tân bị lôi cuốn theo cái ám ảnh của vấn đề thiếu thốn cái sinh lí: “Ở Xuân Hương, dâm và tục gặp một khu đất màu mỡ thuận tiện cho sự phát triển: sự khủng hoảng tính dục luôn luôn sôi sục và trầm trọng của con người rất mực đa tình là Xuân Hương. Dâm và tục đã ăn sâu vào ý thức tư tưởng Xuân Hương, chi phối hầu hết thi phẩm của Xuân Hương.
- Cùng quan niệm trên phải kể đến Lê Hoài Nam viết về phần Hồ Xuân Hương trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam, tập 3, thời kì I (Gs Lê Trí Viễn chủ biên). Với vấn đề tục dâm ông cho rằng muốn nhận định một tác phẩm nghệ thuật dâm hay không dâm, trước hết phải căn cứ vào thái độ, mục đích của tác giả khi sáng tạo ra hình tượng nghệ thuật, phải tìm bắt cho được cái nỗi niềm kín, cái rung động sâu xa mà người nghệ sĩ muốn thổ lộ với người đời. Ông cho rằng những đòi hỏi hạnh phúc ái ân trong thơ Hồ Xuân Hương là chính đáng khi đặt nó trong hoàn cảnh xã hội nhất định, trong những điều kiện nhất định của một cá nhân. Điều đáng chú ý là trong công trình này, ông là một trong những người đầu tiên nhấn mạnh rằng thơ Hồ Xuân Hương thể hiện một khía cạnh đầy cá tính, đó là ý thức về giá trị của mình.
- Đến năm 1961, Trần Thanh Mại gợi lên trong: “Thử bàn lại vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương” khiến cho văn đàn bàn về thơ Hồ Xuân Hương lại có dịp trở nên sôi động. Từ đó thêm nhiều ý kiến về góc nhìn này trong nội dung thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
- Tiêu biểu cho các tiếp cận thơ Nôm Hồ Xuân Hương ở khía cạnh giới tính mà dưới tên gọi vấn đề dâm tục là Nguyễn Lộc. Trong bài Lời giới thiệu in trong tập Thơ Nôm Hồ Xuân Hương (1982). Hồ Xuân Hương trong bài viết này của Nguyễn Lộc như là hình tượng đại diện cho toàn thể người phụ nữ bị áp bức trong xã hội phong kiến Việt Nam. Vì vậy, đối với ông, những nội dung trữ tình trong thơ Hồ Xuân Hương cũng phản ánh nội dung tình cảm của những người phụ nữ bị áp bức. Tuy nhiên, Nguyễn Lộc không xem vấn đề nghĩa ngầm, dâm và tục là phương tiện chính đả kích sự dâm đãng. Mặt khác, ông luôn đặt hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương trong tiến trình lịch sử văn học, bên cạnh trào lưu nhân văn chủ nghĩa trong văn học thế kỉ XVIII -XIX. Điều này soi sáng được mối liên hệ giữa thơ Hồ Xuân Hương và các sáng tác khác, góp phần cho thấy hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương không phải là hiện tượng lạ lẫm, bất thường.
- Về sau có công trình nghiên cứu thơ Nôm Hồ Xuân Hương theo phương pháp phê bình văn hoá cũng có đề cập đến vấn đề giới tính là Hồ Xuân Hưong – Hoài niệm phồn thực của Đỗ Lai Thuý. Ông vận dụng hai khái niệm chủ chốt của nhân học văn hoá là “biểu tượng phồn thực” – âm vật và dương vật, “vô thức tập thể” để soi chiếu và giải mã hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương. Theo ông “tín ngưỡng phồn thực” là cơ sở chính tạo nên hiện tượng thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Ở công trình này, Đỗ Lai Thuý cũng đã lý giải hiện tượng tục dâm trong thơ Hồ Xuân Hương bắt nguồn từ điểm nhìn văn hoá. Ý kiến này giải thích phần nào sức hấp dẫn của thơ Hồ Xuân Hương trong đời sống dân gian.
- Ngoài ra còn phải kể đến những nghiên cứu về Hồ Xuân Hương ở các trường đại học. Năm 2005, Hoàng Phong Tuấn, học viên Cao học Khóa 13, Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã chọn Các hướng tiếp nhận thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hươmg làm đề tài luận văn tốt nghiệp sau đại học cho mình. Trong đề tài này anh đã khái quát dường như tất cả các hướng tiếp cận thơ Nôm Hồ Xuân Hương, bao gồm cả những gì liên quan đến vấn đề giới tính trong thơ bà.
- Gần đây nhất, đầu năm 2008, tác phẩm Sức hấp dẫn của thơ Nôm Hồ Xuân Hương của PGS – TS Lê Thu Yến đã đem đến cho người tiếp nhận văn học những khám phá mới mẻ về nội dung nghệ thuật của thơ Nôm Hồ Xuân Hương ở một góc nhìn trần thế của con người. Bằng một giọng văn hóm hỉnh và giàu trí tuệ của một người yêu thơ Nôm Hồ Xuân Hương, tác giả của công trình nghiên cứu trên cũng đưa ra vấn đề giới tính là một điểm nhấn để lí giải cho sức hấp dẫn của thơ Nôm Hồ Xuân Hương thu hút bao thế hệ. Đây là một công trình có giá trị đối với những người yêu thơ Hồ Xuân Hương nói riêng và những người yêu văn chương nói chung.
- Cùng với các bài viết đã được công bố rộng rãi trên sách báo mà những người yêu mến Hồ Xuân Hương biết tới, còn một số lượng khá lớn các bài viết được đưa lên mạng internet rải rác trong khoảng hơn chục năm gần đây. Thế Uyên (trong Tình dục trong ca dao và thơ Hồ Xuân Hương – nguồn Talawas năm 2005) khẳng định “nhà văn nữ mà bàn tới tình dục trong tác phẩm thành văn của mình, tính từ lúc Ngô Quyền lập quốc thế kỷ thứ 10 cho đến thế kỷ 19, vẫn chỉ có nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương”.
- Tác giả Trịnh Thanh Thủy có bài Sex – dưới mắt nhìn của người viết nữ Việt Nam trên trang Evan cho rằng: “Trong kho tàng văn học Việt Nam thời xưa, người viết nữ đề cập đến tình dục nhiều nhất là nữ sĩ Hồ Xuân Hương”.
- Trong đọc lại Thiếu nữ ngủ ngày của Xuân Hương của tác giả Mai Văn Hoan đăng trên trang Văn nghệ quân đội cuối tuần ngày 18 – 04 – 2007 có đoạn: “Ở bức tranh “Thiếu nữ ngủ ngày”, Hồ Xuân Hương đã bổ sung thêm hai “điểm nhấn” hết sức quan trọng, càng tôn thêm vẻ đẹp tuyệt mỹ của thân thể người phụ nữ. Vì thiếu nữ “nằm chơi quá giấc nồng” giữa ban ngày ban mặt, lại vô ý để cho chiếc yếm đào “trễ xuống dưới nương long” nên mới lộ ra: đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm/Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông”! Đúng là một vẻ đẹp thần tiên. Chỉ cảnh tiên mới có Bồng Đảo, mới có Đào Nguyên. Gò Bồng Đảo đã đẹp rồi “sương còn ngậm” lại càng đẹp hơn nữa. Lạch Đào Nguyên đã hấp dẫn rồi “suối chửa thông” lại càng hấp dẫn hơn. Tất cả hãy còn trinh nguyên! Chỉ có Hồ Xuân Hương mới bạo dạn đặc tả cái “lạch Đào Nguyên” hết sức ấn tượng và tuyệt vời đến như vậy… nhằm tôn vinh cái đẹp trời cho của người phụ nữ” [39]. Trong cách cảm nhận của Mai Văn Hoan, Hồ Xuân Hương miêu tả Thiếu nữ ngủ ngày như thế không thể coi là tục mà tả như thế chỉ nhằm tôn vinh vẻ đẹp nữ giới.
- Sẽ là không đầy đủ khi không nhắc đến một số người yêu thơ Hồ Xuân Hương và đã tiếp nhận một cách sáng tạo qua việc họa thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Đó là họa sĩ Bùi Xuân Phái, họa sĩ Chóe, Đặng Quý Khoa, Nghiêm Xuân Quảng… Trong đó, Bùi Xuân Phái và Chóe đã có hẳn những bộ sưu tập về họa thơ Hồ Xuân Hương bằng tranh. Bất cứ ai khi tiếp cận với những bức tranh của hai họa sĩ này đều cảm nhận được sự sinh động của hình ảnh và cái duyên, sự hóm hỉnh của những tâm hồn nghệ sĩ đồng điệu. Những nét vẽ bằng cọ rất có hồn, hơn nữa nó thể hiện “trúng” ý nghĩa của những vần thơ Xuân Hương.
- Có thể nói chung rằng, các công trình nghiên cứu khoa học trên ít nhiều đã đi sâu vào nghiên cứu tìm hiểu và đưa ra được những lí giải khá sâu sắc, thú vị về một số phương diện cụ thể trong sáng tác của Hồ Xuân Hương. Riêng xét ở góc nhìn giới tính, các bài viết trên đã có đề cập, nhưng chưa có sự đào sâu về góc nhìn này, một số công trình nghiên cứu chỉ xoay quanh vấn đề tục dâm trong thơ bà và ở một số công trình khác lại thiên về chê hoặc khen tài thơ của bà mà chưa gọi tên cụ thể đó là vấn đề giới tính trong thơ Hồ Xuân Hương. Tuy nhiên, để hiểu một cách đầy đủ hơn về thơ Nôm Hồ Xuân Hương và nhằm xác định các đóng góp của Hồ Xuân Hương cho nền văn học Việt Nam trung đại, chúng ta cần có một cái nhìn toàn diện, đa chiều hơn. Và, có lẽ để có những cơ sở khách quan và chính xác, chúng ta cần đi sâu tìm hiểu những đặc trưng chủ yếu trong nội dung và nghệ thuật của nhà thơ tài năng này dưới góc nhìn giới tính.
THƠ VÀ ĐỜI HỒ XUÂN HƯƠNG QUA NỘI DUNG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC:
- Có thể nói, mối liên hệ giữa cuộc đời và thơ ca của Hồ Xuân Hương chính là sự tương hỗ, hữu cơ, bao gồm và phản ảnh lẫn nhau. Trong thơ ta thấy cuộc đời thân phận và số phận bi kịch của nữ thi sĩ. Cũng từ những đớn đau ghì chặt trong cuộc sống, thơ ca của Hồ thi sĩ mới đạt đến đỉnh cao của cung bậc cảm xúc, đau buồn nhưng cũng không bi lụy.
- Như vậy, có thể thấy, sự phản ánh qua lại của thơ ca và cuộc đời của nữ sĩ họ Hồ đã phần nào phản ánh một vài khía cạnh con người ấy. Đây cũng chính là phương diện tiếp cận con người và tiếp nhận thơ ca Hồ Xuân Hương. Từng câu chữ dòng thơ ta đều nhận ra những tư tưởng và suy tư của phận người phụ nữ, tiếng nói sâu thẳm trong tâm tư nhà thơ.
Hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Thơ của Xuân Hương đã làm cho đời sống văn học trở nên sôi nổi, với hàng trăm bài viết, hàng trăm ý kiến khác nhau về thơ bà. Đặc biệt là mảng thơ Nôm, có nhiều ý kiến cho rằng thơ bà mang yếu tố dâm và tục, nhưng thời gian trôi qua, dần dần mọi người hiểu và càng thêm trân trọng tài năng cũng như phẩm chất con người nữ sĩ hơn. Xuân Hương còn được mệnh danh là “nhà thơ của phụ nữ”, bởi thơ bà là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ – những người phụ nữ rất đỗi bình thường trong xã hội cũ phải gánh chịu biết bao thiệt thòi, bất hạnh nhưng không ai dám lên tiếng đấu tranh. Vấn đề người phụ nữ được đặt ra với qui mô sâu rộng và được soi sáng ở nhiều góc độ rất tinh tế. Có thể nói, Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã mang đến cho thơ văn tiếng nói của người phụ nữ. Ngày nay, chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh, tiến bộ hơn, người phụ nữ cũng được đề caovà coi trọng. Bên cạnh đó, vẫn còn đâu đây những số phậncủa người phụ nữ phải chịu bất hạnh trong cuộc sống. Vì vậy thơ Hồ Xuân Hương vẫn còn nguyên giá trị và sức sống.Đọc thơ Xuân Hương, chúng ta không chỉ đồng cảm, sẻ chia mà còn để chiêm nghiệm và suy ngẫm. Từ đó, ta lại càng thấy trân trọng và đồng cảm cho số phận của những người phụ nữ kém may mắn hơn. Trong thơ Hồ Xuân Hương, số phận người phụ nữ được bộc lộ qua những phương diện như: Thứ nhất,người phụ nữ với số phận nhỏ bé, bất hạnh: Thân phận của những người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương thường nhỏ bé, cuộc đời của họ long đong lận đận. Họ phải sống trong một chế độ xã hội phong kiến lạc hậu, trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không có chỗ đứng và địa vị trong xã hội. Vì vậy, những người phụ nữ có tài như Hồ Xuân Hương thường không được coi trọng, đồng thời việc làm của một người vợ thường ít được người chồng cảm thông, dù cho quanh năm lam lũ vất vả nuôi chồng nuôi con chăm sóc cho gia đình luôn được yên ấm. Họ là những người phụ nữ có tài có sắc nhưng cuộc đời lận đận, số phận bi đát, bé nhỏ trong xã hội: Thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi, ba chìm với nước non (Bánh trôi nước) Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn Trơ cái hồng nhan với nước non (Tự tình II) Trong giai đoạn này, ta cũng bắt gặp những bài thơ nói về số phận hẩm hiu của người phụ nữ. Họ là những người như bà Tú trong Thươngvợ của Tú Xương kiếm sống vất vả, cơ cực, luôn phải đối diện với nỗi hiểm nguy: Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng. Và của những số kiếp nổi nênh: Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh (Chiếc bánh)
Trong chế độ phong kiến suy tàn ở Á Đông hàng mấy nghìn năm con người rất đau khổ, nhưng khổ nhất là người đàn bà. Không phải vô cớ mà Nguyễn Du đã nấc lên thay cho người phụ nữ trong Văn chiêu hồn: Đau đớn thay phận đàn bà! Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu? Trong Truyện Kiều Nguyễn Du một lần nữa lại xót xa: Đau đớn thay phận đàn bà! Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm cũng có nói đến cái khổ của người chinh phụ. Trong thơ Xuân Hương, bà không chỉ than cho người đàn bà dưới chế độ phong kiến mà còn nói lên nỗi đau của bản thân mình. Xuân Hương đã nói một cách trần trụi nhất, với cái mạnh mẽ của sự phản kháng và gắn chặt đời mình cùng với số phận của những người phụ nữ nói chung trong xã hội cũ : Chém cha cái kiếp lấy chồng chung Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Ở xã hội xưa, trai năm thê bảy thiếp là thường, còn người phụ nữ không cho phép được như vậy. Họ đâu có quyền làm chủ đời mình, trong ca dao ta cũng bắt gặp rất nhiều câu ca nói về số phận hẩm hiu của người phụ nữa: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai hay: Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày. Người phụ nữ trong thơ Xuân Hương nói riêng và trong xã hội phong kiến nói chung đều là những con người với số phận bi đát. Càng đọc, ta càng hiểu thêm bối cảnh xã hội nước ta lúc bấy giờ và càng trân trọng họ. Họ là những đóa hoa sen thơm mát, tỏa hương cho đời, “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Từ đây ta càng cảm thông sâu sắc cho số phận người phụ nữ Việt Nam xưa, phải chịu nhiều khổ cực, tủi nhục, hiu quạnh, tình duyên hẩm hiu, trắc trở. Thứ hai, người phụ nữ với nỗi đau trong đường tình duyên: Do sống trong xã hội phong kiến – một xã hội coi thường phụ nữ và luôn bị lễ giáo trói buộc, không được hoạt động xã hội, không được học hành thi cử, chịu nhiều thiệt thòi cả ngoài xã hội cũng như trong gia đình. Chính vì vậy, người phụ nữ không chỉ chịu thiệt thòi, bất hạnh trong cuộc sống mà còn đau khổ trong đường tình duyên. Có lẽ phải chịu nhiều lận đận trong đường tình duyên, hai lần làm lẽ nhưng cả hai lần đều ngắn ngủi nên Hồ Xuân Hương rất hiểu và đồng cảm với phận của những người phụ nữ không may mắn trong đường tình duyên. Đó là nỗi khổ của người phụ nữ làm lẽ, người phụ nữ không chồng mà chửa, người phụ nữ chết chồng…Điều đáng nói ở đây là bà dám lên tiếng tố cáo gay gắt, quyết liệt xã hội phong kiến thối nát, mục ruỗng mà không ai dám lên tiếng. Hồ Xuân Hương khắc họa thân phận khổ nhục của người làm lẽ, năm thì mười họa mới được gần chồng. Họ là thứ làm mướn không công và để thỏa ham muốn nhục dục của bọn nhà giàu. Nhà thơ vạch trần bản chất xấu xa của chế độ đa thê phong kiến. Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Năm thì mười họa hay chăng chớ, Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm Cầm bằng làm mướn, mướn không công. Nhà thơ nói về thân phận của người phụ nữ làm lẽ nhưng đồng thời đó cũng là cảnh ngộ của bản thân bà. Ai cũng biết trong cuộc đời cũ, đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai, nhưng những người chịu đựng nhiều hơn cả vẫn là phụ nữ và nỗi đau của họ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng. Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ, bà thấu hiểu tất cả những nỗi đau đó bằng kinh nghiệm của cuộc đời chung và cuộc đời riêng chẳng ra gì của mình; và bằng tiếng thơ, muốn nói lên những tiếng nói chia sẻ với họ. Vì vậy, thơ Xuân Hương luôn là tiếng kêu xé lòng của những người con gái nhẹ dạ.Trong bài Không chồng mà chửa, nhà thơ lại viết về một cảnh ngộ của một người phụ nữ, cảnh ngộ những cô gái không may có may có mang với người yêu của mình nhưng không được xã hội chấp nhận. Cả nể cho nên hóa dở dang, Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng… Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc, Phận liễu sao đà nảy nét ngang. Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa? Mảnh tình một khối thiếp xin mang. Quản bao miệng thế lời chênh lệch Không có, nhưng mà có mới ngoan Trong bài thơ này Hồ Xuân Hương đã nhấn mạnh cái nghĩa, cái trách nhiệm mà người đàn ông nào đó vô tâm trước hậu quả để lại cho người phụ nữ và tác giả đã đứng về phía cô gái mà dùng một ý của câu ca dao: Không chồng mà chửa mới ngoan Có chồng mà chửa thế gian sự thường Không chỉ cảm thông với thân phận của người làm lẽ, người phụ nữ không chồng mà chửa mà Hồ Xuân Hương còn muốn an ủi những người phụ nữ mất chồng, muốn dịu dàng với họ, để cho họ khuây khỏa nỗi đau và dìu họ trở lại với cuộc sống bình thường: Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng Nín đi kẻo thẹn với non sông (Dỗ người đàn bà khóc chồng) Lúc thì đùa nghịch nhưng rất thân tình: Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì Thương chồng nên mới khóc tì ti… (Bỡn bà lang khóc chồng) Trong văn học phong kiến của ta hiếm có nhà thơ nào độc đáo mà nhân tình đến thế. Có thể nói từ sự ý thức sâu sắc về giá trị của người phụ nữ và cảnh ngộ ngang trái của họ trong xã hội phong kiến, Hồ Xuân Hương đã trở thành một nhà thơ chống đối phong kiến quyết liệt, một con người đả kích gay gắt những kẻ đại diện cho giai cấp phong kiến thống trị cùng những gì chà đạp con người. Ở bài Tự tình II, tác giả lại viết: Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại, Mảnh tình san sẻ tí con con Sự sống của đất trời cứ vận hành như muôn thuở vậy, còn riêng mình thì vẫn cứ bất hạnh, hẩm hiu trong số phận, trong tình duyên, tình duyên đã ít lại còn phải chia ba sẻ bảy nữa. Ðọc thơ bà, người đọc có cảm giác người phụ nữ trong thơ Xuân Hương gần như chưa một lần nhận diện được hạnh phúc. Thứ ba,người phụ nữ phê phán, đả kích giai cấp phong kiến thống trị: Trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa, bởi vì thơ bà trước hết là tiếng nói tâm tình của phụ nữ. Không phải người phụ nữ lầu son gác tía, chinh phụ hay cung tần, mà là người phụ nữ bình thường, người phụ nữ lao động có nhiều bất hạnh trong cuộc sống. “Có thể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói của những người phụ nữ ấy: những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng căm hờn và những tiếng châm biếm sâu cay”. Bởi trong xã hội lúc bấy giờ, phụ nữ là người chịu nhiều thiệt thòi nhất. Họ không chỉ bị áp bức về mặt giai cấp mà trong tư cách là người phụ nữ nói chung, họ còn bị áp bức về mặt giới tính với đạo “tam tòng”. Tất nhiên, họ cũng không lặng câm mà chịu đau khổ, họ vẫn nói, vẫn kêu, vẫn đòi hỏi. Nhưng nhìn chung, tiếng nói ấy chỉ là nững tiếng kêu thương thất vọng. “Đại diện cho giới phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã nói bằng thứ ngôn ngữ riêng của mình, kết hợp nhuần nhuyễn với tiếng nói của nhân dân lao động. Tiếng nói đã kích, tố cáo được nữ sĩ sử dụng thông qua công cụ cố hữu của truyền thống văn học dân tộc, cũng như phổ biến trên thế giới: tiếng cười châm biếm”. Mặc dù bị trói buộc trong những quan niệm, phong tục cổ hủ và lạc hậu… nhưng trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn đẹp, vẫn sáng, vẫn luôn vùng lên để đòi bình quyền để muốn nói rằng: họ là nữ nhi nhưng vai trò của họ trong xã hội là rất lớn. Đến giai đoạn này, có người đã chống lại vua khi vua không ra vua nữa. Riêng Hồ Xuân Hương với thân phận nữ nhi, chắc bà không có ý định chống vua, mà chỉ mắng nhẹ mà đau vô kể: Hồng hồng má phấn duyên vì cậy Chúa dấu yêu vua một cái này Nếu đối với chúa, Hồ Xuân Hương châm chích thói mê hoa, hiếu sắc thì với bọn quan thị, nữ sĩ đã giơ cao đánh thẳng vào cuộc sống trái lẽ tự nhiên của chúng. Đứng trước cái dị hợm, quái gở ấy, bà văng tục, bà chửi đổng, cười mỉa: Đố ai biết đó vông hay chốc Còn kẻ nào hay cuống với đầu Hồ Xuân Hương châm biếm, đã kích từ vua đến quan, nhưng có lẽ chịu nhiều nhất là bọn “hiền nhân quân tử”, bọn mô phạm phong kiến. Đối với “quân tử”, Xuân Hương không chỉ chôn chân chúng trước bức tranh thiếu nữ ngủ ngày, mà còn bắt chúng “mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo” lên đèo Ba Dội. Bên cạnh những “hiền nhân quân tử” là đám nho sĩ dốt nát lại còn huênh hoang. Xuân Hương gọi chúng là “phường lòi tói”, là “lũ ngẩn ngơ”, xưng chị và đòi dạy chúng làm thơ: Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ? Lại đây cho chị dạy làm thơ Sự dâm đãng không chỉ lén lút phía hậu hiên, mà còn công khai trước bàn thờ phật: Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà. Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha. Không những thế, hàng ngũ đại diện cho Nho giáo bà cũng không bỏ qua: Khen thay con tạo khéo khôn phàm (Hang Thánh Hóa) Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc (hang Cắc Cớ) Qua thơ Xuân Hương ta thấy cả một xã hội phong kiến thời bà bị chế giễu, đả kích. Bà dùng tiếng cười, thông qua yếu tố tục, xoáy vào đời sống bản năng của giai cấp thống trị để từ đó đả kích, tố cáo thói đạo đức giả của chúng. Nhưng thơ Xuân Hương đâu chỉ biết cười, mà đọc thơ bà ta nghe như có tiếng nấc bên trong. Tôi muốn lấy ý kiến của nhà thơ Xuân Diệu thay cho lời kết của mình: “những nhà trào phúng vĩ đại không nhe răng ra mà cười, không chửi bằng cả lời nói, họ ném trái tim của họ, ném cả cuộc đời của họ vào cuộc đời, cũng như những nhà trữ tình vĩ đại. Trong xã hội cũ, thơ của họ thực chất là máu và nước mắt mặc cái áo trào phúng đó thôi”. Chính vì vây,khi viết về vẻ hình tượng người phụ nữ, Hồ Xuân Hương có những bài thơ bày tỏ niềm kiêu hãnh của mình về vẻ đẹp hình thức, vẻ đẹp tâm hồn và vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ của người phụ nữ như: * Vẻ đẹp hình thức. Người phụ nữ trong văn học giai đoạn này xuất hiện không còn cái khép nép trong cái mô thức “tại gia tòng phụ, phu tử tòng phu” hay “công, dung, ngôn, hạnh”. Trong cuộc tao ngộ các giai nhân của văn học giai đoạn này, người ta thấy thường là những cô gái trẻ đẹp, thanh lịch, với nụ cười trên môi và chan chúa tình yêu đời, yêu người trong lòng. Hồ Xuân Hương sáng tác trong bối cảnh ấy, với tính cách và cảnh ngộ riêng của mình, nhà thơ viết rất nhiều về phụ nữ, nữ thi sĩ xứng đáng là nhà thơ của phụ nữ. Điều này càng được làm rõ hơn qua bài thơ “Đề tranh tố nữ”: Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình Chị cũng xinh mà em cũng xinh Đôi lứa như in tờ giấy trắng. Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh. Xiếu mai chi dám tình trăng gió, Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh, Còn thú vui kia sao chẳng vẽ, Trách người thợ vẽ khéo vô tình Trong văn học ta có lời thơ nào ca ngợi các cô gái và tuổi trẻ của các cô gái đẹp hơn thế nữa. Nhưng độc đáo hơn cả là bài thơ “Thiếu nữ ngủ ngày” của nhà thơ. Đây là một bài không phải ca ngợi vẻ đẹp của phụ nữ nói chung, hay ca ngợi tuổi trẻ, mà ca ngợi vẻ đẹp trên cơ thể của một cô gái trẻ tuổi. Văn học giai đoạn này, ta bắt gặp nhiều tác giả miêu tả vẻ đẹp của giai nhân như Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều. Hay trong tác phẩm Hoa tiên tác giả cũng miêu tả vẻ đẹp của Dao Tiên, hay trong Truyện Tây sương miêu tả vẻ đẹp của Thôi Oanh Oanh…Đó là cái vẻ đẹp trên khuôn mặt với đôi mắt và nụ vười, cái đẹp của đôi mắt và làn da….cách miêu tả của các nhà thơ nói chung là ước lệ tượng trưng. Riêng với Hồ Xuân Hương thì công khai ca ngợi và khẳng định vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ. Cách miêu tả của Xuân Hương thuộc vào loại độc đáo nhất của thời đại. Bà chú ý đến những bộ phận thân thể thường được giấu kín của con người. Những bộ phận đó văn học thời đại thường né tránh. Riêng Hồ Xuân Hương lại nhìn thấy đó chính là một trong những biểu hiện của vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ. Cách miêu tả của bà cụ thể, không chung chung, mờ nhạt: Lược trúc chải dài trên mái tóc, Yếm đào trễ xuống dưới nương long Ðôi gò bồng đảo sương còn ngậm Một lạch đào nguyên suối chửa thông (Thiếu nữ ngủ ngày) Đây là sự trinh trắng ngây thơ, là sự hồn nhiên trọn vẹn. Cách miêu tả của nhà thơ không có một chút bỡn cợt, trái lại thể hiện một thái độ hết sức nâng niu, trân trọng. Trong thời buổi suy tàn của xã hội phong kiến, con người bị chà đạp, bị giày xéo, nhiều giá trị bị đảo lộn, bị nghi ngờ, nhà thơ giữ cho mình nguyên vẹn cặp mắt trong veo để nhìn người, nhìn đời, để thấy hết mọi giá trị đẹp của con người. Cũng vì thế mà thơ Xuân Hương có giá trị nhân đạo sâu sắc. * Vẻ đẹp tâm hồn. Trong xã hội cũ, có ai dám như Xuân Hương đứng ra bênh vực cho những người con gái dở dang ấy, có ai dám ngang nhiên thừa nhận những quy tắc đi ngược lại khuôn mẫu của lễ giáo phong kiến như bà. Những điều đó chỉ có ở bản lĩnh, một trái tim tha thiết, nồng ấm sự cảm thông của một tâm hồn nghệ sĩ. Từ những tiếng nói cảm thông ấy, Xuân Hương còn lên tiếng đề cao ca ngợi họ, tìm thấy vẻ đẹp thực sự chân chính ở họ. Trong một loạt hình tượng nói về số phận bấp bênh, hẩm hiu của người phụ nữ như “chiếc bánh trôi” “bảy nổi ba chìm”; hay quả mít “vỏ nó xù xì”; con ốc nhồi “đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”… nhà thơ luôn chú trọng nêu bật cái đẹp bên trong, cái đẹp tâm hồn của họ. Quả mít tuy “vỏ nó xù xì” nhưng “múi nó dày”. Trong bài Bánh trôi nước, nhà thơ đã ca ngợi, đề cao, trân trọng phẩm chất kiên trinh của người phụ nữ. Dù sống trong hoàn cảnh nào họ cũng giữ được tấm lòng son sắt: Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son ( Bánh trôi nước) Mặc dù, số phận người phụ nữ không được định đoạt, lênh đênh giữa cuộc đời nhưng họ không cam chịu, họ vẫn giữ sự thủy chung, son sắt, bất biến với tình yêu. Một lời nói thể hiện niềm tự hào về phẩm chất thủy chung của người phụ nữ. Trong bài thơ Ðề tranh tố nữ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp bất diệt của tuổi xuân, sự trinh trắng, ngồn ngộn sức sống của những cô gái đang xoan: Ðôi lứa như in tờ giấy trắng Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh Bài Mời trầu lại là cái nhìn về vẻ đẹp của khát vọng sống. Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi Này của Xuân Hương mới quệt rồi. Có phải duyên nhau thì thắm lại, Ðừng xanh như lá, bạc như vôi. Giống như bao cô gái khác, Xuân Hương cũng khao khát có một tình yêu bền chặt, nồng cháy. Nàng cũng muốn mở lòng mình ra để đón lấy tình yêu nồng thắm từ người bạn đời tri âm tri kỉ, đón những hương sắc của cuộc đời. Xuân Hương hồi hộp chờ đợi. Nhưng rồi năm tháng trôi qua, những mùa xuân đi không trở lại, nhà thơ dần dần nhận ra cái bạc bẽo của con người và cuộc đời, cái hẩm hiu của số phận. “Câu thơ nhân hậu của hờn dỗi, duyên dáng mà có cái gì như đanh đá, thách thức” *Vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ. Trong các nhà thơ phụ nữ ở nước ta, Hồ Xuân Hương và thơ ca của bà là một hiện tượng khá đặc biệt được rất nhiều người đàm luận từ xưa đến nay. Tục truyền hồi Xuân Hương còn đi học; một hôm gặp phải trời mưa, đến sân nhà trường, đất trơn, cô nữ sinh trượt chân ngã oạch một ái, các bạn học thấy thế đều cười ầm lên. Nhưng Xuân Hương đã đứng ngay dậy, ung dung đọc hai câu thơ rằng: Giơ tay với thử trời cao thấp Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài rồi bình thản đi vào. Mấy chàng trai thấy thế cũng phục tài. Lại có chuyện, một hôm Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc về, nàng đang lững thững trên bờ Hồ Tây, bỗng thấy có mấy thầy khóa bước rảo lên theo sát ở đằng sau rồi trêu ghẹo nàng, có người lại mang cả văn chương chữ nghĩa ra nữa, nàng đọc cho một bài thơ rằng: Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ? Lại đây cho chị dạy làm thơ Có thể nói rằng, trong cái xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ”như vậy, Xuân Hương vẫn dám khẳng định tài năng, trí tuệ hơn người của mình. Hay trong bài Ðề đền Sầm Nghi Ðống, tác giả đã thể hiện được sự tự ý thức về mình, thể hiện được tài năng của người phụ nữ. Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo Kìa đền thái thú đứng cheo leo Ví đây đổi phận làm trai được. Thì sự anh hùng há bấy nhiêu. Ði qua ngôi đền thờ tên tướng bại trận, nhà thơ phụ nữ này đã không chịu cất nón, cúi đầu chào kính cẩn, trái lại còn buông lời chê cười, mỉa mai: ghé mắt tức là nhìn liếc, nhìn bằng nửa con mắt. Ðặc biệt ở hai câu kết nhà thơ đã dám nói một điều táo bạo: Nếu được làm trai thì sự nghiệp anh hùng của ta sẽ không xoàng, không tồi tệ như sự anh hùng của nhà ngươi đâu. Qua đây, ta cũng hiểu thêm ít nhiều về người phụ nữ xưa, không chỉ đẹp về hình thể mà họ còn là những con người có đầy tài năng. Tiếng thơ Xuân Hương là tiếng thơ của một người phụ nữ tài hoa, cá tính nhưng phải chịu sự gò bó của lễ giáo phong kiến khắt khe, kìm kẹp cuộc sống. Bao khao khát, bao nguồn sống mãnh liệt không được bộc lộ trong cuộc sống được bà gởi gắm cả vào trong thơ. Thơ Xuân Hương là những nỗi niềm không chỉ của riêng tác giả mà của tất cả những phụ nữ bất hạnh trong xã hội phong kiến.Cuộc đời và thơ Hồ Xuân Hương là một hiện tượng hết sức phức tạp, còn nhiều điều chưa rõ. Dẫu sao ta cũng tự hào vì trong văn học Việt Nam có một nữ thi sĩ đầy tài năng lại xuất hiện trong một xã hội mục ruỗng. Ai cũng biết, cuộc đời đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai, nhưng những người chịu đựng nhiều hơn cả vẫn là phụ nữ và nỗi đau của họ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng. Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ, bà thấu hiểu tất cả những nỗi đau đó bằng kinh nghiệm của cuộc đời chung và cuộc đời riêng chẳng ra gì của mình; và bằng tiếng thơ, muốn nói lên những tiếng nói chia sẻ với họ. Trong lịch sử văn học dân tộc, có lẽ Xuân Hương là người đầu tiên dám cất lên tiếng nói khẳng định tài năng trí tuệ của người phụ nữ, nói lên ước vọng được khẳng định mình. Và cao hơn hết chính là tư tưởng nhân đạo trong thơ Xuân Hương đem lại cho đến nay vẫn còn giá trị. Có thể nói, tuy chưa phản ánh được những mâu thuẫn lớn của thời đại, chưa có tầm nhìn xa để thấy hết những đau khổ và khát vọng của con người, song Hồ Xuân Hương cũng đã đóng góp cho nền thơ ca dân tộc một tiếng thơ hết sức độc đáo. Thơ bà là thứ thơ giải phóng cá tính, dám khẳng định cá tính và bản lĩnh riêng. Bà là nhà thơ đầu tiên dám đưa cá tính vào trong thơ. Chính cá tính ấy đã giúp cho tiếng thơ của bà khi nói về người phụ nữ có một sắc thái riêng, hoàn toàn khác với những nhà thơ viết về phụ nữ trước đó và cả sau này. Hình tượng người phụ nữ trong thơ Xuân Hương luôn ngẩng cao ở tư thế hiên ngang, đầy bản lĩnh và bà không chìm vào khóc thương cho số phận của họ. Ngày nay, cuộc sống đã đổi thay nhiều, xã hội đã công bằng hơn với người phụ nữ. Nhưng có những nỗi đau khổ đã trở thành hằng số muôn đời của người phụ nữ và đâu đó xung quanh ta vẫn còn nhiều mảnh đời chị em bất hạnh. Vì vậy, mà thơ Xuân Hương vẫn còn vẹn nguyên giá trị và sức sống. Đọc thơ Xuân Hương, không chỉ là để đồng cảm, để sẻ chia mà còn là chiêm nghiệm, suy ngẫm.
Vấn đề giới tính
Hồ Xuân Hương là một hiện tượng độc đáo của nền văn học Việt Nam. Hãy bỏ qua những ý kiến trái ngược nhau về thơ bà từ trước đến nay, nhưng dòng thời gian lịch sử đã chứng minh với chúng ta, Hồ Xuân Hương đã trở thành một người đi trước thời đại của mình và con người nữ sĩ cùng thơ của bà mãi mãi tạo ra sức sống hấp dẫn người đọc mọi thế hệ. Những ngôn từ góc cạnh, những triết lí nhân sinh giản đơn, đời thường, không đao to búa lớn của bà đã “đi thẳng vào tới giữa lòng chúng ta rồi ở lại như sinh tố thấm nhuần vào máu huyết mặc dầu thời đại đổi thay, chướng ngại vật của đời ngăn cách” [102, tr.585 – 592]. Một phần nhiều của sức hấp dẫn ấy chính là vấn đề giới tính mà bà đề cập. Có lẽ bất cứ ai khi đến với thơ Hồ Xuân Hương đều cảm thấy và không thể phủ nhận vấn đề giới tính trong thơ bà. Hồ Xuân Hương nói về vấn đề giới tính mà không dùng sơn son thiếp vàng, lụa là gấm vóc của những điển cố, điển tích hay những hình ảnh tượng trưng ước lệ vốn thường gặp trong thơ văn cổ. Trước hết, đó là điểm nhìn về vấn đề giới tính trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
- Điểm nhìn giới tính trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Quan niệm của người xưa, đất trời đặt trong mối quan hệ âm – dương. Mọi sự vật hiện tượng tồn tại ở vòng trời đất này đều cần sự hài hòa giữa hai mặt âm, dương, tức là phải có cặp có đôi – như một quy luật bất di bất dịch. Sự tồn tại nhân loại này không nằm ngoài quy luật ấy. Như thế người phụ nữ và đàn ông vốn tồn tại cạnh nhau, vị thế của họ đáng lẽ phải ngang nhau. Vì dù là giới nào, đàn ông hay đàn bà, trai hay gái thì cũng không nằm ngoài những quy luật tất yếu của cuộc sống; do đó phải có sự bình đẳng giữa nam và nữ. Nhưng thực tế thì trong xã hội phong kiến, người đàn bà không được xác lập bất cứ một vị thế nào mà họ còn phải chịu đựng trăm điều cay đắng. Phải chăng vì bất bình trước điều này mà người đàn bà ngông ngạo, bản lĩnh Xuân Hương mới lên tiếng.
Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho trào lưu nhân đạo chủ nghĩa của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, trước hết là vì sáng tác của bà đã nêu bật lên được những vấn đề riêng tư của con người cá nhân, những nỗi bất công mà người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chịu đựng và tin tưởng đấu tranh để bênh vực quyền lợi của họ. Xuân Hương không nêu lên tất cả những nỗi khổ của người phụ nữ mà chỉ nêu lên những nỗi khổ riêng, có tính chất giới tính của họ như kiếp chồng chung, goá bụa, chửa hoang, người đàn bà với gánh nặng chồng con…Thơ Xuân Hương mang đậm sắc thái giới tính, bà thông cảm, chia sẻ với nỗi khổ ấy nhưng không thở than, rên rỉ mà động viên, an ủi họ dũng cảm chống lại những định kiến của xã hội phong kiến khắc nghiệt, để ngẩng cao đầu làm người. Nữ giới trong thơ của Hồ Xuân Hương là những cô gái trẻ trung yêu đời, những tố nữ duyên dáng, là cô gái mời trầu chân tình đến cảm động, là thiếu nữ rộn ràng mở rộng lòng mình “đón xuân vào”, là những người đàn bà với tấm lòng son sắt, thuỷ chung dù gặp bao khó khăn, vất vả. Bà ý thức rõ giá trị, vai trò, khả năng của người phụ nữ không thua kém đàn ông. Bên cạnh đó, Xuân Hương còn đề cao những cái mà người đời cho là hèn mọn, xấu xa đáng che giấu: bà ca ngợi vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ, nhất là những bộ phận gợi dục, đồng thời bà không phủ nhận thú vui xác thịt – thú vui trần thế của con người mà còn khẳng định chúng với những giá trị đích thực. Sự thể hiện đó của Hồ Xuân Hương như sự phản ứng lại với thói đạo đức giả, khinh thường thân xác, coi rẻ phụ nữ của Khổng giáo.
Tuy không quyết liệt, ráo riết, rầm rộ như các phong trào “cổ vũ đấu tranh” cho phụ nữ đòi bình đẳng với nam giới ở các nước phương Tây, Hồ Xuân Hương của Việt Nam cũng đã biết dùng thơ để chống lại xã hội mà mọi đặc quyền dành cho nam giới. Trong đó, một điều kì lạ là ở một đất nước phương Đông bé nhỏ này, một người đàn bà – Xuân Hương đã dám đối đầu với cả một xã hội phong kiến với những nhà nho cứng nhắc lúc nào cũng tuân theo: tam cương, ngũ thường, tam tòng tứ đức như một đức tin. Tuy nhiên, điểm nhìn về giới tính của Hồ Xuân Hương không giống với những người đi trước và cả những người cùng thời với bà – bà có cái nhìn rất riêng, rất lạ. Cái nhìn ấy bắt nguồn từ thời đại nhà thơ sống và từ chính cuộc đời của mình – cuộc đời của một con người chịu nhiều sự trớ trêu, gãy đoạn, long đong, lận đận trong tình yêu, hạnh phúc. Điểm nhìn giới tính của Xuân Hương là điểm nhìn của nữ giới. Điểm nhìn của người phụ nữ ấy về vấn đề giới tính chỉ toàn những gì quen thuộc, toàn những điều gần gụi, không to tát. Đó là cuộc sống đời thường với những khát khao tình yêu, hạnh phúc trần thế. Hơn nữa, dù có táo bạo, mạnh mẽ, gan góc đi chăng nữa thì thực chất Hồ Xuân Hương cũng chỉ là một người đàn bà và bản thân bà cũng là một nạn nhân điển hình của xã hội phong kiến nhiều bất công và tàn nhẫn với nữ giới.Vì vậy, bà luôn hướng về người phụ nữ như một nạn nhân cần phải bênh vực, bảo vệ, nâng niu những gì đẹp nhất nơi họ.
Dù chế độ phong kiến ở phương Đông hay phương Tây thì vai trò của người phụ nữ luôn bị coi thường. Nho giáo có những quan niệm hà khắc cùng với quan niệm tôn ti, lễ nghĩa của xã hội Việt Nam đã vô tình hạ thấp vai trò của người phụ nữ. Họ trở thành công cụ, nô lệ để thỏa mãn cơn tình dục của nam giới, sau đó lại bị khinh rẻ. Xuân Hương đã đề cao vai trò to lớn không thể thiếu được của người phụ nữ trong chức năng thiêng liêng, vai trò sinh ra sự sống.Việc duy trì nòi giống không chỉ là trách nhiệm cao cả của con người mà đó còn là hành vi văn hóa, nhân văn trong đó người phụ nữ giữ vai trò đặc biệt. Họ được tạo hóa ban cho sức mạnh, lòng tin và cả đức hy sinh để thực hiện thiên chức ấy. Vì một sự thật không thể chối cãi là việc sinh nở ở giới nữ là một việc nặng nề, nguy hiểm và luôn cần sự cảm thông của người khác giới. Người Việt ta có câu ca:
“Đàn ông đi biển có đôi,
Đàn bà đi biển mồ côi một mình”.
Vì đôi lúc do sự trớ trêu của số phận, sự lỡ dại mà việc những người phụ nữ mang trong mình mầm sống của cuộc đời ấy lại bị coi như tai họa. Đó là trường hợp những cô gái bị xã hội kết tội “không chồng mà chửa”. Đây là lúc dư luận xã hội, thậm chí cả hành động bất nhân, tàn nhẫn, độc ác nhất sẽ giáng xuống thân phận người phụ nữ bất hạnh và đứa con còn trong trứng nước. Nhẹ thì cạo đầu bôi vôi, thả trôi sông, nặng thì bắt phải bỏ vào rừng… nhưng khốn khổ nhất là bị xã hội dè bỉu, khinh ghét còn hơn cả kẻ vướng vào án tử hình. Trong sự cùng quẫn nhất, họ bị ép vào thế cùng, không ít người phụ nữ đã phải tự hủy hoại sự sống. Vì tội chửa hoang vốn bị coi là một tội nặng, bị người đời, xã hội khinh rẻ còn hơn cả những tội do sự bất lương nào; kể cả “sự vụ” ấy bắt nguồn từ một tình yêu say đắm, chính đáng; dù nàng có biết “Cả nể cho nên hoá dở dang”. Trong trường hợp này, Xuân Hương đã đứng ở phía tạo hóa mà nâng đỡ, bênh vực cho những số phận rủi ro đó và cất tiếng nói bảo vệ người phụ nữ ấy bằng thái độ can đảm: “Mảnh tình một khối thiếp xin mang”. Xuân Hương như hóa thân, đại diện cho người phụ nữ để đặt ngôn ngữ, giọng điệu tự tin đầy nhân văn cho giới mình. Dường như trong câu thơ đó có chút ngậm ngùi nhưng cũng đầy nghĩa khí, mạnh mẽ. Cách thể hiện ấy ngược lại với người phụ nữ trong xã hội phong kiến chỉ biết cúi đầu chịu tội, chấp nhận mọi sự dè bỉu cũng như hình phạt của người đời. Dường như người Cổ Nguyệt muốn ủng hộ, lại như chia sẻ cho người phụ nữ “không chồng mà chửa” kia. Vì “cả nể”, vì thành thật và mãnh liệt trong tình yêu nên “hoá dở dang”, như thế không thể trách tội cô gái, có trách thì hãy trách kẻ gây ra “mảnh tình” rồi chối trách nhiệm. Bà ngang nhiên ca ngợi cái gọi là “nhân cách” của người phụ nữ dám hi sinh cho tình yêu, rất tự trọng và dám thách thức những thành kiến cay nghiệt của xã hội phong kiến ruồng bỏ người phụ nữ chửa hoang:
“Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có, nhưng mà có mới ngoan”
(Không chồng mà chửa)
Thì ra chính “miệng thế” – miệng lưỡi cay độc của thế gian bị nhuộm đen bởi tư tưởng phong kiến đã trở thành những kẻ lắm lời, đơm đặt. Trước điều này, Xuân Hương đã dùng cách nói phủ định để khẳng định sự biện hộ, bênh vực cho giới nữ một cách mạnh mẽ và kiên cường “Không có, nhưng mà có mới ngoan”.
Điểm nhìn giới tính trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương còn là việc chống lại những cấm đoán khắt khe của xã hội phong kiến đối với người phụ nữ trong quan niệm về tình yêu, hạnh phúc, từ đó bảo vệ và bênh vực cho họ. Có lẽ đây là nữ sĩ đầu tiên trong văn học – một người phụ nữ tài hoa và dũng cảm đã lên tiếng trên giấy trắng mực đen, nói rõ ràng, mạch lạc, đấu tranh cho quyền lợi của giới mình, bà đã lên tiếng chửi kiếp lấy chồng chung:
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”
(Lấy chồng chung)
Chế độ năm thê bẩy thiếp thời phong kiến là một ví dụ tiêu biểu cho sự áp bức, bất công và bạo tàn dành cho số phận của những người phụ nữ làm lẽ (mà kể cả làm chính – một vợ một chồng thời đó cũng chẳng khá gì hơn). Chế độ ấy chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu tình dục cho nam giới, mà không quan tâm đến tâm trạng cũng như nhu cầu của người phụ nữ – một chủ thể cũng cần được tôn trọng trong thú vui vô cùng của tạo hoá. Xin được lạm bàn khía cạnh này đôi chút. Theo những nghiên cứu của các chuyên gia về giới tính châu Âu, “người đàn bà thật sự đạt được sự khoái lạc khi có kích thích cực độ” [118, tr.155 -156]. Nhưng thử hỏi có bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam đạt được điều đó? Khi mà sự giao ngộ thân xác của người phụ nữ Việt Nam trong cảnh:
“Đương cơn lửa tắt cơm sôi,
Lợn kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem”
Cơm sôi mà lửa tắt, lợn thấy bếp động, bụng đói cũng kêu, con nhỏ nằm bên khóc đòi bú, còn chồng thì đòi “cái kia”. Tất nhiên người đàn bà đó sẽ thoả mãn tất cả nồi cơm, con lợn, trẻ nhỏ, người chồng; nhưng còn thoả mãn mình? Được là bao…? Hồ Xuân Hương có lẽ thấu hiểu điều này nên bà thông cảm và chia sẻ với cảnh ngộ ấy của người phụ nữ khi vừa thoả mãn chồng vừa ru dỗ con thơ:
“Hỡi chị em ơi có biết không?
Một bên con khóc một bên chồng
Bố cu lổm ngổm bò trên bụng
Thằng bé hu hơ khóc dưới hông”.
(Thân phận người đàn bà)
Nhưng sự cố gắng ấy đôi khi người đàn ông chẳng bận tâm, vì nam giới coi đó là bổn phận, là trách nhiệm của nữ giới, mới gây ra cơ sự. Chính vì sự bất công, vô tâm ấy của nam giới mới có những tiếng kêu thống thiết:
“Năm thì mười hoạ chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không”.
(Lấy chồng chung)
Đáng thương hơn nữa mọi sự cố gắng để sống, để tìm niềm hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc hôn nhân ấy cũng chẳng được gì. Xuân Hương cay đắng nhận ra:
“Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công”.
(Lấy chồng chung)
Xuân Hương, bằng cuộc đời thật của mình, hai lần làm lẽ, nhưng tình duyên ngắn ngủi, tơ duyên đứt đoạn. Đau đớn bà thốt lên:
“Thân này ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong.”
(Lấy chồng chung)
Trong quan hệ vợ chồng không có sự quan tâm thì còn có ý nghĩa gì; mà thứ tình yêu dựa trên quan hệ “chồng chung vợ chạ” thì càng tội nghiệp hơn. Thứ tình yêu vội vàng, qua quýt, hú hoạ tệ hại ấy của người đàn ông có khác gì sự ban phát của người bề trên đối với người dưới. Một thứ tình yêu mang màu sắc bất bình đẳng giới. Với Xuân Hương điều đó thật khó chấp nhận, bà không thể cam chịu sự đối xử như thế. Xuân Hương luôn đòi hỏi một tình yêu tròn đầy, viên mãn, một đời sống tình dục “lành mạnh và cường tráng” (chữ dùng của Ănghen), dựa trên sự thoả mãn và lợi ích của cả hai người chứ không phải thứ tình yêu phải “san sẻ tí con con” một cách không hợp lí như thế. Vì tình yêu vốn là cái không thể chia sẻ.
Nhưng có lẽ bất hạnh nhất phải kể đến người phụ nữ goá chồng. Vì dường như cả ông trời cũng đối xử bất công khi:
“Cán cân tạo hoá rơi đâu mất
Miệng túi càn khôn khép lại rồi”
(Khóc ông Phủ Vĩnh Tường)
Người phụ nữ chồng chết thì đồng nghĩa với việc họ sẽ phải chôn vùi tuổi trẻ, tình yêu – cuộc đời khép lại. Vì Nho giáo đề cao người phụ nữ thủ tiết ở vậy nuôi con không tái giá. Xã hội nam quyền ấy không chấp nhận cho người đàn bà đi bước nữa, những người phụ nữ góa chồng
mà tái giá thì bị coi là đánh mất tiết hạnh (thất tiết), không còn được xã hội coi trọng [134, tr.120].Trong khi đàn ông nếu thích thì cứ việc lấy thêm thiếp cho dù vợ vẫn sống sờ sờ ra đấy.
Điểm nhìn giới tính trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương xoay quanh những vấn đề liên quan đến giới nữ, những ấm ức, bất bình mà người phụ nữ phải gánh chịu. Nhưng thiết nghĩ những điều gần gũi, bé nhỏ ấy lại là tất cả những gì người phụ nữ xưa và nay trên hành tinh này mong đợi. Tuy thế, Xuân Hương không than thở, khóc lóc, rền rĩ về thân phận mình hay kiếp phận giới nữ của mình. Nữ sĩ ấy đã chọn một cách diễn đạt riêng. Tiếp cận với thơ bà, người ta không thấy cô độc, buồn tủi, không chán nản và hận đời, mà ngược lại, người đọc còn cảm nhận được sức mạnh nào đó vực người phụ nữ bất hạnh đứng dậy, bước qua nỗi đau, thoát khỏi nghịch cảnh, thúc giục người ta không quên khát khao hạnh phúc. Xuân Hương nữ sĩ dõng dạc cất tiếng hát bằng trái tim, bằng nỗi lòng của một người phụ nữ, tiêu biểu cho tâm hồn và niềm tâm sự của nữ giới nói chung – những người đã phải chịu quá nhiều bất công trong xã hội trọng nam khinh nữ. Tiếng hát của người đàn bà ấy thật đa thanh phức điệu khi bông đùa bỡn cợt, lúc tha thiết yêu thương, lúc thổn thức đau đớn, lúc khát khao cháy bỏng… Dường như cách thể hiện của người kì nữ, kì tài ấy chỉ muốn đối tượng nghe hiểu, thông cảm, chia sẻ đôi chút dư vị ngọt ngào và cả cái vị đắng đót và của cuộc đời dành cho thân phận đàn bà.
- Sự tự hào về giới
Văn học thế kỉ XVIII – XIX thể hiện rất phong phú những biến cố của xã hội, hiện thực xã hội đen tối, những cảnh đời bất hạnh… Đặc biệt hình ảnh người phụ nữ được các nghệ sĩ quan tâm. Họ trở thành nhân vật trung tâm của các tác phẩm văn học. Xuân Hương cũng vậy, bà đã trở thành nhà thơ của phụ nữ, người biện hộ và người gửi gắm nỗi niềm của chị em phụ nữ. Trong khi xã hội phong kiến chủ trương tiêu diệt cá tính, thủ tiêu mọi nhu cầu cá nhân của con người để tôn thờ giai cấp thống trị. Xuân Hương đã đi ngược với xã hội ấy để cất tiếng nói đầy cá tính của mình. Đó là tiếng nói mạnh mẽ của một người phụ nữ về chính giới mình – giới nữ với vẻ đẹp tâm hồn, tài năng và đặc biệt vẻ đẹp thân thể. Tiếng nói ấy chân thực, rõ ràng đầy tự hào, đầy bản lĩnh. Có lẽ tiếng nói, vần thơ của Xuân Hương cũng đã góp phần nhằm xác lập hình ảnh người phụ nữ, vị trí của người phụ nữ Việt Nam trong tiến trình đi lên của lịch sử dân tộc.
- Người phụ nữ với hình thể đẹp
Một trong những nội dung dễ thấy nhất trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương đó là sự tự hào về vẻ đẹp của người phụ nữ từ ngoại hình lẫn tâm hồn, đặc biệt là tự hào về vẻ đẹp hình thể. Đối với Xuân Hương, cơ thể đẹp là niềm tự hào cho bất kì người phụ nữ nào sở hữu nó, cũng giống như người ta tự hào về tài năng, về tuổi trẻ của mình vậy. Vì “người đẹp là kiệt tác cuối cùng của tự nhiên” (Wolfgang Goethe) [136, tr.38]. Bởi thế từ ngày xưa trong huyền thoại đã có chuyện thi thố giữa các vị thần sắc đẹp để tìm ra người nào đẹp nhất, mới xảy ra cớ sự Cuộc chiến thành Troa. Từ đây ta mới thấy, trong cuộc đời người tài và người đẹp đều khan hiếm như nhau, và cái tài ấy, sắc ấy đều đáng được trân trọng, ngợi ca. Vậy, tại sao con người lại không trân trọng vẻ đẹp thân thể của con người mà lại e dè, xa lánh nó như nguồn gốc của tội lỗi. Biết bao giờ, con người mới đối xử công bằng với vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ, mới có thái độ như cụ Nguyễn Du “Thiện căn ở tại lòng ta” với vấn đề nhạy cảm này. Hồ Xuân Hương đã viết những vần thơ thể hiện sự tự hào đó một cách không giấu diếm. Dường như khi ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, Xuân Hương luôn tạo ra nét đẹp mới mẻ, sống động đặt trong thế nhân vật của mình là thanh nữ. Bà không ngần ngại phô trương vẻ đẹp của những thân thể ấy như một vũ khí độc chiêu:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn” (Bánh trôi nước)
“Giếng tốt thanh thơi giếng lạ lùng
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông.
[…] Giếng ấy thanh tân ai chẳng biết,
Đố ai dám thả nạ dòng dòng”
(Giếng nước)
“Hai hàng chân ngọc duỗi song song” (Đánh đu)
Xuân Hương dụng công miêu tả bánh trôi nước, giếng nước, đánh đu, dệt cửi, cái quạt, quả mít… nhưng cơ thể con người cứ lộ dần sau câu chữ. Hàng loạt tính từ chỉ sự trong trắng của người thiếu nữ, nào là trắng, là tròn, thanh thơi (hấp dẫn, cuốn hút), thanh tân (trong trắng, trinh nguyên), lại còn phau phau đôi ván ghép, nước trong leo lẻo… Cái giếng thơi ấy chẳng phải là một cô gái thanh tân chưa ai dám thả “nạ dòng dòng” ư?
Nude (tiếng Anh) – dịch ra tiếng Việt có nghĩa là khỏa thân, thường được coi như từ chuyên dụng cho lĩnh vực nghệ thuật, khác hoàn toàn với Nake là trần trụi, thiên về dung tục đời thường. Khỏa thân trong nhiều nền văn hóa, đầu tiên là phục vụ tôn giáo, tín ngưỡng, để ca ngợi thần linh, để cầu sự phồn thực… như người viết đã trình bày ở các phần trên. Nhưng khi chủ nghĩa nhân đạo ra đời, con người trở thành đối tượng trung tâm của các hình thức nghệ thuật, thì khỏa thân là để ca ngợi chính con người. Xuân Hương đề cập đến hình thể con người để tôn vinh chính con người trong cuộc sống, đó là những cơ thể của những cô gái lao động lành mạnh, khỏe khoắn, đầy sức sống, những cô gái mang vẻ đẹp thanh tân, quyến rũ. Hồ Xuân Hương miêu tả hình thể người phụ nữ không thua kém gì con người trong điêu khắc, hội họa, rất tự nhiên, hài hòa, sống động. Đấy mới là vẻ đẹp thực sự của con người. Thiếu nữ ngủ ngày là một bức truyền thần khỏa thân bằng ngôn ngữ:
“Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc biếng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông .
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở không xong”.
Bài thơ tả cơ thể xuân thì của một cô gái bình dân, một cơ thể tràn đầy sức sống, thanh tân buộc người ta phải chiêm ngưỡng trong sự trân trọng và thán phục trước tài trác tuyệt của hóa công. Đấy chẳng phải là “tòa thiên nhiên” “dày dày đúc sẵn” đó sao? Một cô gái với giấc ngủ trưa lành mạnh, ở đấy, Xuân Hương công khai đem vẻ đẹp thanh tân ấy của người con gái bày ra giữa thanh thiên bạch nhật, khen xinh và không ngại dụng công miêu tả những điểm gợi cảm nhất của giới nữ: “đôi gò Bồng Đảo”, “một lạch Đào Nguyên”. Tất cả là tiên cảnh, Hồ Xuân Hương đã dùng hai hình ảnh “gò Bồng Đảo” và “lạch Đào Nguyên” để nâng vẻ đẹp thân xác của người phụ nữ đến mức thần tiên. Nhưng cái đáng quý là “gò Bồng Đảo” lại “sương còn ngậm” và cái “lạch Đào Nguyên” kia thì vẫn ở thế trinh nguyên “suối chửa thông”. Vẻ đẹp của cô gái ấy còn đang e ấp, giữ gìn nên càng cao quí. Thiếu nữ ngủ ngày là một bức tranh đầy sức gợi cảm. Thân thể cô thôn nữ khỏe khoắn, đầy sức sống được đúc tạc không phải bằng đường nét, màu sắc, hình khối của điêu khắc hay hội họa mà bằng một thứ ngôn ngữ sang trọng của văn chương. Miêu tả hình thể đẹp của cô thôn nữ trước là để ca ngợi vẻ đẹp trời phú của con người lao động, sau như là một phản ứng của Hồ Xuân Hương trước thói đạo đức giả của người đời. Con người ai cũng có thất tình lục dục, mấy ai có thể cưỡng lại sức mạnh của tự nhiên, nhất là cưỡng lại món quà hấp dẫn nhất của tạo hóa là người phụ nữ đẹp. Đại thi hào văn học Anh William Shakespeare từng phát biểu: “sắc đẹp làm động lòng trộm cướp hơn vàng” [136, tr.50]. Cơ thể con người chẳng phải là thứ “vàng mười” của tạo hóa tạo sao? Và vẻ đep hình thể ấy có thể thuyết phục ánh mắt người đàn ông mà chẳng cần đến bất cứ lí lẽ hùng biện nào, làm sao không động lòng, níu chân người quân tử? Phải chăng cái đẹp là một phạm trù không biên giới, khi các nền văn hóa khác nhau, các dân tộc khác nhau, các thời đại cách xa nhau, lạ lùng thay không hẹn mà gặp trong khoảnh khắc tiếp nhận cái đẹp nhân sinh và cùng phủ phục trước quyền năng kì lạ và bí ẩn của nó? Bức tranh khỏa thân Xuân Hương vẽ không thụ động trong từng kiểu dáng, nó toát ra nét đẹp trần tục, sinh động và gợi cảm đến nỗi người đạo hạnh cũng phải vã mồ hôi, miệng thì lầm bầm, nhưng mắt lại khẽ liếc nhìn và chân thì cứ ríu lại “dùng dằng đi chẳng dứt”.
Chính cái “dùng dằng” của người quân tử càng làm cho vẻ đẹp của thiếu nữ thêm ý nghĩa nhân văn. Với cách tả ấy, bà chúa thơ Nôm đã đảo ngược trật tự phong kiến, phá bỏ lớp áo quy ước lớn về hình thức trong văn chương, làm thay đổi bộ mặt của sáng tác được coi là trang nhã nhất trong văn học từ trước đến nay. Đây là lí do để nhà nghiên cứu Việt Nam học người Nga Niculin cho rằng “Thân thể con người tựa hồ đã hoà lẫn với thiên nhiên » [67, tr.12], cơ thể con người trở thành một nhân vật trong thơ của nữ sĩ. Và dĩ nhiên hình thể con người đã trở thành nhân vật chính, khai thác bao nhiêu vẫn chưa đủ, vẫn còn đầy sức quyến rũ. Nhưng điều đáng trân trọng là Xuân Hương lấy cơ thể làm đối tượng miêu tả không nhằm mục đích gợi những điều xấu xa mà chỉ để biểu hiện thái độ nhân văn, nhân đạo sâu sắc và táo bạo, cũng như đưa đến những bước đi mạnh dạn trước thời đại của bà. Với tư tưởng này, có thể coi Hồ Xuân Hương là nhà thơ Phục Hưng của văn học Việt Nam thời trung đại.
Người phụ nữ đẹp không chỉ mang giá trị tự thân họ mà còn làm đẹp cho cuộc sống của chúng ta, làm cuộc đời chúng ta vui hơn. Chúng ta cũng không thể chối bỏ rằng họ là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca, nhạc họa. Điều đáng quí ở nữ sĩ họ Hồ là bà đã đem người phụ nữ ngoài đời – người phụ nữ bình dân Việt Nam chạm khắc vẻ đẹp và đức hạnh của họ vào vũ trụ to lớn; họ không còn bé nhỏ nữa, trong phút chốc bỗng mang sức mạnh vĩ đại khi đem ban phát cái đẹp và sự sống, nguồn vui cho hành tinh này. Đáng ca ngợi và tự hào lắm chứ! Và ngay cả khi bà bỡn họ theo cách của bà thì hình ảnh người phụ nữ trong thơ Nôm của Xuân Hương luôn luôn là hình ảnh đẹp, khoẻ khoắn, ngời ngời sức xuân. Họ hiện thân của Thiếu nữ ngủ ngày vô tình để lộ cái trắng trong cho kẻ phàm phu tục tử bối rối, là Tranh tố nữ đẹp cho người ta ngắm đắm say vừa tiếc nuối vì thiếu cái phần “tất yếu của sự sống”, là múi mít thơm ngon sau vỏ bọc xù xì… Chính vẻ đẹp của những “đôi gò Bồng Đảo, “một lạch Đào Nguyên”, những “hồng hồng má phấn”, những “cửa son đỏ loét”… là khởi nguồn, là điều làm nên niềm hạnh phúc, hoan lạc cho trần gian mà những bậc hiền nhân quân tử, vua chúa dù muốn chối bỏ nhưng mỏi ngối, chồn chân vẫn còn ham. Giới nữ tự hào về những điều mình hiến dâng cho cuộc đời một cách tự nguyện, vì vẻ đẹp của người phụ nữ là cội nguồn của niềm hoan lạc, của sự thăng hoa. “Cái đẹp là dấu hiệu của Đấng Toàn Năng dùng để cổ vũ đức hạnh” (Ralphalo Emerson) [136, tr.1658].
Như ở phần trên người viết đã đề cập, vẻ đẹp của con người là phần thưởng của tạo hóa, nó cần được khẳng định, cần được tôn vinh. Sức mạnh của cái đẹp, của cái thẩm mĩ là vô cùng. Vì cái đẹp giúp con người nhận ra giá trị của mình và định hướng cho con người sống đúng với, sống trọn vẹn với sự hoàn hảo của cái đẹp. Với Xuân Hương, hình thể của người phụ nữ là cái đẹp – một cái đẹp hoàn mỹ đứng cạnh những cái đẹp khác trong vũ trụ này. Nếu như điêu khắc và hội họa là nghệ thuật được đo bằng chiều kích của không gian và hình thức nghệ thuật này cho phép trình diễn lập tức sự hoàn thiện của tác phẩm, văn chương không như vậy; văn chương là nghệ thuật đòi hỏi sự thẩm định của thời gian. Hơn nữa sự thẩm định của thời gian dành cho văn chương còn lệ thuộc vào những yếu tố khác, một trong những điều quyết định sự thẩm định văn chương này là yếu tố tư tưởng thời đại. Theo những gì mà người viết đã trình bày ở trên về quan điểm thẩm mĩ phong kiến, vẻ đẹp của người phụ nữ chỉ được thể hiện ở áo quần, trên khuôn mặt mà không bao giờ được thể hiện ở vóc dáng, da thịt. Quan điểm cổ hủ ấy cho rằng, nếu người phụ nữ bày da thịt là tục, là dơ. Nho giáo cũng cho sự để lộ cơ thể, da thịt ra ngoài đó là một tội lỗi. Quan điểm của Nho giáo về vẻ đẹp của con người này đã chi phối đến văn chương. Xưa nay trong văn học, ta thường chú tâm thể hiện cái đẹp đạo lí, đạo đức (điều này đúng nhưng thiết nghĩ không đủ), vì một CON NGƯỜI theo đúng nghĩa của nó phải đủ cả hai mặt: vật chất (thân xác) và tinh thần (tâm hồn), nhưng văn chương nước ta ít đề cập đến vấn đề thân xác – vẻ đẹp hình thể. Và ngay cả khi văn học trung đại có nói đến vẻ đẹp của con người ở mặt hình thể cũng theo một công thức chung: mắt phượng, mày ngài, lông mày lá liễu, má đào, làn thu thủy nét xuân sơn… Cái đẹp ấy được quy chiếu từ cái đẹp trong tâm hồn của con người, hay từ vị trí xã hội, chỗ đứng của nhân vật đó mà có. Đến Hồ Xuân Hương thì khác, người phụ nữ trong những lời thơ của Xuân Hương bước vào văn học với dáng vẻ hoàn toàn khác trước. Bà thể hiện một triết lí ngược lại, ấy là đề cao nét đẹp hình thể – nâng nó lên thành vẻ đẹp hoàn mỹ nhất. Quan điểm của Hồ Xuân Hương gần với quan điểm tiến bộ của các nghệ sĩ phương Tây. Danh họa Goya đã nói: “thân thể trần truồng của người đàn bà là kiệt tác của thiên nhiên, còn ý nghĩ về sự dâm tục là sản phẩm của bản chất gian manh” [139, tr.89]. Tất nhiên không có thân xác nào chỉ là thân xác, thân xác phải chứa đựng hành động, tư tưởng, giống như mỗi hình thức phải mang một nội dung nhất định. Những hình thể con người trong thơ của Xuân Hương sống động mà không siêu thoát cũng không quá dung tục. Nhà thơ lấy chất liệu ấy từ cuộc đời, từ con người với số phận thật, chưng cất nó, nhưng không đem làm của riêng cho mình, không sơn son thiếp vàng cho nó, cũng không ném nó vào thế giới siêu hình, bà đem nó đặt một cách trân trọng, nâng niu giữa cuộc đời, trả nó về với nơi nó sinh ra nhưng mang một vẻ đẹp khác hẳn – vẻ đẹp hoàn mỹ. Đây chẳng phải là thứ tuyên ngôn nghệ thuật mà lớp con cháu bà sau này mới thấm thía nhận ra sao? Văn chương không thể thoát ly thực tại đời sống và thân xác là thực tại đầu tiên của kinh nghiệm làm người. Ở phương diện này, ta thấy bản lĩnh của Xuân Hương đã dũng cảm dấn thân vào một lĩnh vực thuộc hiện thực “gai góc” nhất của văn chương nhưng kì lạ thay đó lại chính là địa giới thân thiết nhất với cuộc sống con người.
- Người phụ nữ với phẩm chất cao quý
Sự tự hào về giới của Hồ Xuân Hương còn thể hiện ở ca ngợi phẩm chất cao quý của người phụ nữ. Những người phụ nữ như bà sống trong xã hội phong kiến chịu nhiều nỗi thua thiệt, nhưng không lùi bước. Trong mọi hoàn cảnh họ đều ý thức rõ về chính mình và tìm cách vươn lên với tinh thần ham sống, yêu đời đến cảm động, để khẳng định mình, để tồn tại; tồn tại để khát khao; khát khao tận hưởng hạnh phúc (dù cuộc đời đáp trả phía họ toàn những điều cay đắng). Đó là hình ảnh người phụ nữ đầy nghị lực vượt qua niềm đau riêng, vượt qua bất hạnh như lỡ thì, làm lẽ, góa chồng… Xuân Hương không muốn nghe tiếng khóc nỉ non của người phụ nữ. Bà cũng không muốn giới mình đành lòng cam chịu thân phận lệ thuộc, bị coi thường, bị ném đi khi kẻ khác giới đã cảm thấy chán chê. Xuân Hương khuyên người đàn bà có chồng vừa mất “Nín đi kẻo thẹn với non sông”, bà không muốn con người ấy khóc than mãi làm gì, cũng không cần phải theo cái đạo “tam tòng” ấy làm gì, hãy để sức mà còn bước tiếp… Xuân Hương cho người đọc tiếp cận với một cô gái không chồng mà chửa do cả nể trong tình yêu bị lỡ làng cũng là một cô gái nhân hậu, khoan dung “Mảnh tình một khối thiếp xin mang” và đồng thời là một người con gái mạnh mẽ, quyết liệt, dám thách thức với lề thói xã hội để giữ lại “khối tình” minh chứng cho tình yêu của mình.
Đó còn là những cô gái với phẩm chất trắng trong, trinh nguyên “Đôi lứa như in tờ giấy trắng” (Tranh tố nữ).
Phẩm chất để Xuân Hương tự hào về người phụ nữ còn là sự gan góc, sức chịu đựng của người phụ nữ trước nỗi đời cơ cực, để giữ gìn cái sắt son của người đàn bà, vẫn giữ tấm lòng son, đằm thắm, tha thiết dù bị bầm dập:
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
(Bánh trôi nước)
Cuộc đời họ nhiều lúc chỉ như phận của “chiếc bách giữa dòng” bập bềnh trôi theo nước chảy “Nửa mạn phong ba luống bập bềnh”. Họ lắm khi cũng ngao ngán trước tuổi trẻ qua mau, cái già đang xồng xộc đến, trong khi nhìn lại cuộc đời mình không có cái gì là vẹn tròn, viên mãn cả, mà cái gì cũng “khuyết” nên mới “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại”, mới tủi phận, xót xa cho cái “duyên để mõm mòm”. Đau khổ thế, buồn tủi thế nhưng họ không để ngã quỵ, gắng gượng vượt qua, người phụ nữ trong thơ Xuân Hương đâu dễ bị khuất phục, dù số phận có nghiệt ngã, trớ trêu đến đâu nhưng họ vẫn cố gắng khẳng định mình “Thân này đâu đã chịu già tom?” Câu thơ như sự thách thức với thực tại phũ phàng đầy chua xót nhưng cũng vô cùng bản lĩnh, cứng cỏi…. Trong một xã hội rối ren, khi mà thân phận người phụ nữ bị rẻ rúng như xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, người phụ nữ vẫn giữ được tấm lòng son, kiên trinh, thủy chung của mình, cố gắng sống đẹp và có nghĩa thì thật đáng trân trọng biết bao. Cách thể hiện này cho thấy phong cách và bản lĩnh của Xuân Hương tạo ra sự vượt bậc và khác biệt giữa nữ sĩ và các tác giả khác về phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam trong văn học.
Thơ Nôm Hồ Xuân Hương còn thể hiện sự tự hào về người phụ nữ muốn làm nên một sự nghiệp anh hùng, không kém nam giới:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”
(Đề đền Sầm Nghi Đống)
Không phải Xuân Hương coi thường nam nhi mà “ghé mắt trông ngang” đền thờ Sầm Nghi Đống. Hành động ấy thể hiện thái độ của bà rất rõ ràng, một tên cướp nước bại trận như hắn thì có gì đáng để người ta kính trọng, thờ phụng. May cho hắn gặp người Việt Nam nhân từ còn cho hắn một chỗ để nương thân, còn có nơi để siêu thoát về kiếp khác. Xuân Hương không nói quá chút nào, thử nhìn vào lịch sử chống giặc của dân tộc thì thấy ngay. Người phụ nữ Việt Nam cũng có những con người tài năng, đã từng làm nên nghiệp lớn như Bà Trưng, Bà Triệu. Xuân Hương đã khẳng định tài năng và phẩm chất của giới nữ để thế giới phải nhìn lại địa vị của họ. Hơn một lần Xuân Hương đề cao phẩm chất cao quý của người phụ nữ. Họ có sức mạnh vượt qua gian khó, suy nghĩ và hành động của họ đôi khi được Xuân Hương nâng lên ngang tầm non sông, vũ trụ. Thân phận bất hạnh, số kiếp đau khổ của họ được hoá thân vào sông núi:
“Trơ cái hồng nhan với nước non” (Tự tình 2)
Xuân Hương đem “cái hồng nhan” so cùng “nước non”. Cảnh buồn nhưng không gợi sự thương cảm, nhờ cách nói cứng cỏi rất Xuân Hương, “cái hồng nhan” ấy trải lòng cùng nước non. Câu thơ Xuân Hương cứ khắc khoải một niềm khát khao giao cảm. Thơ bà nhắc nhiều đến ba chữ “với nước non” – Bánh trôi nước, Hỏi trăng, có khi biến thành “với non sông” – Dỗ người đàn bà khóc chồng, Đá Ông chồng Bà chồng có lẽ cũng vì một niềm khao khát, giao cảm ấy.
Ngược lại với tư tưởng coi khinh phụ nữ của giai cấp phong kiến, Xuân Hương đề cao giá trị của người phụ nữ. Thơ Xuân Hương như một thông điệp khẳng định nguồn sống của xã hội là người phụ nữ, họ là những người yêu chồng, chăm sóc và nuôi dạy con cái, vun vén gia đình:
Tất cả những thu là với vén
(Cái nợ chồng con)
Thậm chí bà tự hào vì sự dâng hiến to lớn của người phụ nữ. Họ sinh ra để tiếp nối sự sống, để ban phát hạnh phúc và cái đẹp cho đời. Họ có khả năng làm cho bọn đàn ông từ hiền nhân quân tử đến vua chúa chết mê chết mệt. Chỉ một thế nằm ngủ “vô tư” của cô gái bình dân vào buổi trưa hè hây hẩy gió đã khiến chàng quân tử động lòng ong bướm “Đi thì cũng dở, ở không xong”, chỉ là một cái quạt vừa giúp “Mát mặt anh hùng khi tắt gió”, vừa “Che đầu quân tử lúc sa mưa”, hay cái vẻ “hồng hồng má phấn” thôi cũng khiến vua chúa, quan quân “Yêm đêm chưa phỉ lại yêu ngày”. Xem ra công dụng của “cái quạt” trong tay nữ giới là vô cùng và phải chăng đó cũng là điểm mạnh của giới nữ mà ít người nhận thấy.
Đó còn là người phụ nữ hiểu biết về giá trị của mình, ý thức về sự sống quý giá của giới mình, về tình yêu, hạnh phúc. Bà trách người thợ vẽ khéo vô tình “Còn thú vui kia sao chẳng vẽ?” (Tranh tố nữ). Nhìn đá bà chạnh lòng cảm thông cho con người (Đá ông chồng bà chồng)… Thơ Xuân Hương là tiếng lòng của Xuân Hương và cũng là tiếng lòng của biết bao người phụ nữ Việt Nam thời bấy giờ. Đó là tiếng lòng của một con người không bao giờ quên ý thức và tự ý thức về mình. Ta hãy nghe cách bà bày tỏ:
“Này của Xuân Hương mới quệt rồi”
(Mời trầu)
Không dùng đại từ nhân xưng mà bà xưng tên riêng của mình “Này của Xuân Hương”. Lối nói mang đầy ý thức khẳng định và niềm tự hào, đến kiêu hãnh trong lời tình tự kia đã thể hiện rõ cái tâm của người mời trầu. Xuân Hương mời trầu cũng là mời duyên, mời tình và bày tỏ lòng mình. Với cách xưng danh xưng tính ấy thật tự tin, bà đã đi trước thời đại của mình rất xa, vì cách xưng hô như thế đến văn học hiện đại mới phổ biến – Đến thế kỉ XX, trong văn xuôi của Tự Lực Văn Đoàn, nam nữ mới tự gọi tên mình khi giao tiếp.
Có một người đàn ông La Mã xưa đã từng la lớn: “không thể sung sướng nếu không có đàn bà” (Narcissus) [134, tr.1650]. “Sướng” ở đây phải hiểu theo hướng đáp ứng được cả thể xác lẫn tâm hồn, ở cả nghĩa tường minh lẫn nghĩa hàm ẩn của nó… Xuân Hương đã đưa ra những bằng chứng xác thực về giá trị của người phụ nữ, đồng thời bà cũng khẳng định vai trò tất yếu của họ trong cuộc sống. Dưới ngòi bút cháy bỏng khát vọng yêu thương của một người phụ nữ bất hạnh trong đời sống tình ái, thơ Xuân Hương lúc nào cũng như muốn san bằng cho được cái tập tục cổ hủ bao đời đè nặng lên bản năng và giới tính của con người, để cất cao giọng ca ngợi, tự hào về giới.
2.3. Thú vui trần thế và khát vọng tình yêu
Khi thân xác xuất hiện lập tức nhục dục cũng xuất hiện. Thánh Bernad nói: “cái thiêng không đi trước cái súc vật, trái lại, cái thiêng liêng chỉ đến sau, vì vậy, trước khi mang hình ảnh người cõi thiêng, ta phải mang hình ảnh của người cõi thế” [132]. Con người trần thế ở đây là con người sống giữa trần gian với tất cả những nhu cầu vật chất và tinh thần, thể xác và trí tuệ, với những khát khao thầm kín chính đáng của nó. Có lẽ thú vui trần thế và khát vọng tình yêu là những điều mà Xuân Hương chủ tâm hướng đến. Thú vui trần thế ở đây được hiểu như ông bà ta vẫn nói: đó là chuyện kín đáo chốn phòng the, chuyện vợ chồng, và như ngày nay chúng ta gọi một các trung tính đó là sex, tạm hiểu là quan hệ giới tính, quan hệ tình dục giữa những người khác giới. Khi nói đến cuộc sống trần gian với những thú vui trần thế thì không thể bỏ qua thú vui xác thịt.
Lịch sử phát triển và sự trường tồn của con người đã để lại nhiều di sản văn hóa đầy ý nghĩa từ vật chất đến tinh thần, từ vật thể, đến phi vật thể. Ở một mức độ nào đó, ta không thể phủ nhận vai trò tích cực của yếu tố tính dục trong đời sống của con người. Sự có mặt của tính dục đã giúp nhân loại nhận diện lại chính mình một cách đặc thù và độc đáo nhất. Vì hoạt động tính giao vốn là thuộc tính của mọi sinh thể sống (trong đó có con người). Tất nhiên ở đây người viết chỉ đề cập đến khía cạnh tính dục của con người. Quan hệ giới tính nằm trong “tứ khoái” của người bình dân “cơm nhà, cháo chợ, l vợ, nước sông”. Tất nhiên không chỉ đơn thuần là chuyện phòng the, để duy trì giống nòi. Hoạt động tính giao như một nhu cầu phổ biến, thiết yếu của con người, bất kể giàu – khó, sang – hèn. Torill Moi, nhà nghiên cứu về giới tính nói : «Tính dục có ý nghĩa như một hành vi bản năng, vượt lên trên bản năng đó, nó còn được biết đến như sự khơi nguồn, sự khởi đầu cho tình yêu và cả những cảm xúc nhân tính – khi tình dục thăng hoa mang trong mình phẩm chất cứu rỗi» [142, tr.120]. Một Chí Phèo (Nam Cao) chỉ thức tỉnh nhân tính thật sự khi bản năng NGƯỜI đàn ông trong nhân vật được đánh thức. Trước đó dù anh đã mơ hồ nhận ra… Chính cú hích của tình dục đã khiến cho tâm hồn con người trở nên tinh tế hơn, sâu sắc hơn. Trong vô vàn những cảm xúc và rung động thẩm mĩ của đời sống tinh thần con người, phải thừa nhận rằng những cảm xúc thánh thiện, thanh khiết về tình yêu, những khoái cảm nhân tính có nguồn gốc từ quan hệ tính giao có giá trị nhất định trong sinh hoạt xã hội. Giá trị này góp phần tiêu diệt tính bản năng của sex, làm cho sex thăng hoa như một hoạt động tinh thần, góp phần rất lớn vào việc kiến tạo văn hóa, đồng thời mang hương vị và ý nghĩa đến cho đời, được con người trân trọng. Điều đó đồng nghĩa với việc khi ta bàn về tính dục là hết sức bình thường vì từ đây ta có thể hiểu thêm về con người, về lẽ đời, về sức mạnh nội tại của con người; khám phá thực tại và khám phá chính mình. Thử hỏi còn gì thú vị và thiết thực hơn? Trên cơ sở đó có thể lí giải cho hiện tượng thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương – với câu thơ mang màu sắc tính dục mạnh mẽ. Rõ ràng những vần thơ của Hồ Xuân Hương cho đến tận ngày hôm nay vẫn còn có sức lôi cuốn đến kì lạ, những nội dung tư tưởng mà bà đề cập đến vẫn làm kinh ngạc người tiếp nhận. Đó chính là điểm lạ, cái duyên riêng, sự độc đáo của người Cổ Nguyệt. Bà đã thể hiện một cách tài tình về thú vui trần thế của con người. Thơ Nôm Hồ Xuân Hương cho thấy chuyện chăn gối là thú vui, là chuyện hết sức tự nhiên của con người, từ người bình dân đến giai cấp quý tộc “Cho ta yêu dấu chẳng rời tay”. Và chuyện đó chẳng bao giờ đủ cả “Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày”. Xuân Hương dường như muốn khẳng định sự bình đẳng trong suy nghĩ, trong khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ – chống lại địa vị độc tôn của nam giới được xã hội thừa nhận một cách bất công.
Tình yêu là sự hòa hợp giữa hai tâm hồn và trạng thái mãnh liệt nhất của tình yêu chính là sự hòa hợp giữa hai thể xác. Nói đến nam nữ là nói đến giới tính, nói đến tình yêu là nói đến một phần của mối quan hệ giới tính, như thế, quan hệ xác thịt là khía cạnh của quan hệ yêu đương, và sự gần gũi về thân xác là một nhu cầu, một thú vui trong quan hệ giới tính ấy. Khát vọng về tình yêu ở khía cạnh hòa hợp thể xác không chỉ có ở nam giới. Con người ai cũng có khát vọng ấy, phụ nữ không ngoại lệ. Hồ Xuân Hương đã dùng văn chương để thể hiện khát vọng ấy bằng những bài thơ vừa thanh vừa tục. Xuân Hương đã đi thẳng vào đề tài sinh tử của con người – cũng là vấn đề muôn thủa của con người, đấy là chuyện phòng the, đấy là vấn đề thân xác, đấy là hai “linh vật” Yoni và Linga sống động, gợi hình. Đây cũng có thể coi là một biểu hiện độc đáo nhất của bà chúa thơ Nôm trong cách nhìn thể hiện khát vọng tình yêu. Bà đề cập đến những khát khao tình yêu vượt lên trên những mức độ thông thường đầy dụng ý. Thơ của bà bộc lộ những khao khát dữ dội, những hình ảnh bóng gió về “chuyện ấy”, “cái ấy”. Thiết nghĩ trong tình yêu, trong đời sống vợ chồng, sẽ khó hạnh phúc trọn vẹn nếu thiếu khía cạnh tình dục. Ta biết rằng, cuộc đời tình ái của nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng như cuộc đời tình ái của người phụ nữ Việt Nam sống dưới chế độ phong kiến không bao giờ được chủ động quyết định, Xuân Hương thấu hiểu hơn ai hết đời sống chăn gối của một người phụ nữ, hạnh phúc thật bấp bênh. Tiếp cận thơ Nôm Hồ Xuân Hương ở góc độ nào cũng có thể thấy yếu tố bản băng, giới tính thể hiện một cách bàng bạc. Nên có nhiều ý kiến cho rằng, thơ Nôm Hồ Xuân Hương mang màu sắc tính dục, hay nặng nề hơn, có người cho đó là thứ thơ “dâm, tục”. Đây quả là vấn đề phức tạp và cũng đầy hứng thú. Dư luận búa rìu này không phải là không có nguyên nhân của nó. Trước hết, vì sản phẩm của dòng thơ ấy xuất thân từ một nữ sĩ, nữ giới ít khi có tiếng nói trong xã hội, giữa đám đông; hơn nữa, thơ bà đã dám đụng đến mảnh đất giới tính – giới địa của sự “cấm kị” (điều mà giai cấp phong kiến ra sức che giấu, khinh miệt); sau nữa trong thơ toàn những biểu tượng mà nhìn ở góc độ nào cũng lấp lửng những chuyện hoan lạc, những bộ phận gợi cảm của giới nữ (làm cho người ta vừa thích thú và kinh sợ). Thật khó có thể giải thích chỉ bằng cảm quan của mỗi cá nhân mà phải truy nguyên vào văn hóa dân gian người Việt để tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Và cho đến ngày hôm nay, Hồ Xuân Hương vẫn là một hiện tượng thơ đặc biệt của văn học trung đại, vì bà có những sáng tác vượt ra ngoài thi pháp, đặc trưng sáng tạo của văn chương chính thống. Thơ Nôm của bà chịu sự “xâm lăng” rất nhiều của những tư tưởng và hình thức nghệ thuật của văn hóa dân gian, đặc biệt là văn hóa phồn thực. Theo Đỗ Lai Thuý trong Hoài niệm phồn thực, Hồ Xuân Hương đã làm sống lại cả một truyền thống văn hóa phồn thực hùng hậu trong sáng tác của mình bằng cách đề cập rất kĩ lưỡng, sắc sảo tình yêu mang màu sắc tính dục với những đòi hỏi phải thỏa mãn cuộc sống ái ân của con người. Sự thể hiện nội dung này trong tác phẩm của bà đã đẩy vị thế của bà trước ranh giới mỏng manh giữa nghệ thuật thanh cao và nghệ thuật dung tục, đồng thời các vấn đề tính dục trong thơ bà cũng đưa vào những cuộc đàm thoại của dư luận, chứ không đơn thuần là chuyện phiếm khi “trà dư tửu hậu”. Bên cạnh đó, văn học thành văn của người Việt thường tôn vinh những tình yêu khắc dục, ca ngợi những vẻ đẹp siêu thoát, thanh cao – trọng tinh thần mà bỉ thể xác. Vậy mà Xuân Hương dám cả gan đưa đề tài tình yêu gắn liền với thú vui xác thịt vào văn chương vốn thanh nhã của các hiền nhân quân tử, của tao nhân mặc khách. Bà mạnh dạn lên tiếng đòi hỏi cho người phụ nữ phải được hưởng những quyền sống chính đáng ở ngay cõi trần thế này, không loại trừ cả những đòi hỏi sinh lí bình thường. Chống lại những đòi hỏi sinh lý bình thường ấy là phản tự nhiên, là chống lại con người. Thơ Xuân Hương thể hiện khát vọng tình yêu thuộc về bản chất tự nhiên của con người. Bà thấu hiểu điều đó và nâng lên thành triết lí sống. Thứ triết lí này không xa lạ mà nó gần với triết lí trong dân gian – triết lí vì con người, chống lại những gì trái tự nhiên, làm tổn hại, què quặt con người (cả phần hồn và xác), để giành lấy khát vọng và tình yêu đầy đủ cho con người. Bà không biết đến thứ tình dục đã được cải trang, tô son điểm phấn, hoặc thứ tình dục đã được nâng đên mức độ tinh khiết một cách gượng ép của văn chương giáo điều, giả dối. Yếu tố tục luôn lấp ló trong thơ bà. Tục nhưng không gợi dục, không khiêu dâm, vì yếu tố ấy gắn với cuộc sống, thói quen, hành vi của người bình dân (mà trong thế giới quan của người bình dân những chuyện đó là lành mạnh, là thứ sản phẩm giúp họ giảm đi những nỗi vất vả trong lao động, thể hiện một tinh thần lạc quan). Chuyện ái ân trong cuộc sống là tự nhiên, không chỉ là nhu cầu mà còn là quyền lợi của con người do đấng tạo hóa ban tặng. Nếu như ai đó thiếu đi nhu cầu này sẽ là bất thường. Nên bà cười nhạo sự bất toàn của con người, những kẻ không còn thú vui này nữa:
“Mười hai bà mụ ghét chi nhau
Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu”
(Vịnh nữ vô âm)
Thật là trời già độc địa làm sao, rõ khéo dở dom, tạo ra con người mà lại bỏ đâu mất “cái xuân tình” – phần tất yếu của cuộc sống con người, để con người trở thành khuyết tật về mặt giới tính. Còn đâu cơ hội để hưởng những thú vui trên đời này nữa. Thật đáng thương! Ở một bài thơ khác, Xuân Hương đã trách khéo người thợ vẽ Tranh tố nữ vì quên mất điểm này:
“Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng,
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Xiếu mai chi dám tình trăng gió,
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,
Trách người thợ vẽ khéo vô tình”.
(Tranh tố nữ)
Một câu hỏi khá bất ngờ sau khi ngắm tranh, còn một cái gì đó sau khi quan sát tranh, nhà thơ phát hiện ra thiếu, “thú vui kia”, cái thiếu sót lớn lao vô cùng. Giá như đừng quên “cái kia” thì bức tranh tố nữ sẽ toàn vẹn hơn nhiều. Hơn nữa Xuân Hương trách người thợ vẽ, thợ trời đã đãng trí quên “thú vui kia”, để đến nỗi bức tranh trở nên vô hồn, chỉ có giá trị nghệ thuật mà không có giá trị sử dụng, thua kém những thiếu nữ bình thường ngoài đời. Tuy vẻ đẹp ấy mãi mãi son trẻ nhưng những tố nữ ấy chẳng bao giờ biết đến cuộc đời sôi động ngoài kia, với bao thú vui trần thế mà họ không có cơ hội nếm trải. Trong khi xã hội phong kiến và tôn giáo coi cơ thể đàn bà, quan hệ nam nữ là nguồn gốc của tội lỗi, là tai họa cho người quân tử thì Hồ Xuân Hương lại ca ngợi, lại coi đó là khởi thủy của cuộc sống. Xuân Hương đề cập đến “thú vui kia” tức đề cập đến phần tính dục của con người. Cách đề cập ấy thể hiện một quan niệm hết sức mạnh mẽ, bạo dạn và tiến bộ của bà. Bà trách người thợ vẽ, trách thợ trời khéo vô tình, vô tâm cố tình bỏ qua thú vui trần thế kia mà không biết rằng Người cũng đã tước đoạt luôn cả nguồn sống, tình yêu của con người trên cõi trần thế đầy hoan lạc này.
Như trên đã trình bày, Xuân Hương không chấp nhận những gì phản tự nhiên, trái với tự nhiên. Vì thế bà thường chĩa ngọn bút của mình vào đám sư sãi, vào những kẻ mượn cõi Phật, những kẻ tu hành trủ trương lánh tục, từ bỏ mọi thú vui trần thế… đều bị Xuân Hương hạ bệ (Chùa Quán Sứ, Sư hổ mang, Sư bị ong châm, Kiếp tu hành). Ta thử ghé qua bức chân dung của một kiếp tu hành: “Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo”
(Kiếp tu hành)
Bài thơ là tiếng cười nhại, chế giễu cái kiếp tu hành, những thầy tu. Hơn thế, bài thơ còn mang tư tưởng, quan điểm của nhân dân về tôn giáo. Con người không cần phải tìm đến Tây Trúc, tìm về cõi niết bàn làm gì vì “Phật tại tâm”. Ở trần gian thì phải đối đãi theo trần gian. Cuộc sống trần gian với bao nỗi buồn vui trần thế sao có thể tìm ở chốn nào khác. Con người tu hành ở bài thơ này trở nên vừa buồn cười vừa đáng thương. Buồn cười ở chỗ ông ta rơi vào sự nghịch lí giữa kiếp tu hành đầy những thứ phải quên để tu cho đắc đạo, phải xa lánh cõi trần thế thì ông lại bị cái “tẻo tèo teo” rất trần tục kia chi phối nên đời tu hành mới “nặng đá đeo”. Sự độc đáo hóm hỉnh của bài thơ ở chỗ, tác giả đã trả con người tu hành về với cuộc sống trần gian. Khẳng định giá trị của cuộc đời trần thế, niềm vui trần thế mà con người khó có thể chối bỏ. Sự châm biếm về đối tượng này được đẩy lên đến cao độ khi người đọc bắt gặp sư thì lười biếng trong cả câu kinh, tiếng kệ, đã thế lại “oản dâng trước mặt” và “vãi nấp sau lưng”, không phải “một” mà tới “sáu bảy bà”. Ra vị sư này “tu” hay đang bày trò “ông sư bà vãi”, nhìn cảnh này, một người như Xuân Hương không thể không “ngứa gan” cho được:
“Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm,
Vãi nấp sau lưng sáu bẩy bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe,
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha”
(Sư hổ mang)
Cách sinh hoạt của loại người này dẫn đến một sự nhầm lẫn tai hại:
“Nào nón tu lờ, nào mũ thâm,
Đi đâu chẳng đội để ong châm
Đầu sư há phải gì… bà cốt,
Bá ngọ con ong bé cái nhầm”.
(Sư bị ong châm)
Dáng vẻ của vị sư trong bài thơ có gì vội vàng, mờ ám như làm điều gì đó khuất tất sợ người khác trông thấy… nên bất cẩn không nón, không mũ… chính vì thế con ong nó châm vào đầu trọc ấy của sư vì nó tưởng đó là cái gì… của bà cốt. Dân gian ta vẫn có câu:
“Bà cốt đánh trống long tong,
Nhảy lên, nhảy xuống con ong đốt đồ”
(Ca dao)
Trước cảnh tượng ấy không thế không mắng mỏ “bá ngọ” con ong. Lời mắng chửi con ong kia chắc chắn sẽ làm ai kia phải chạnh lòng. Rõ thật là khốn khổ cho cho nhà tu hành nọ nhưng cũng tai quái thay cho cách liên tưởng ấy của bà Chúa thơ Nôm.
Kể cả khi Hồ Xuân Hương tả cảnh thiên nhiên, chúng ta dễ nhận ra sau phong cảnh ấy là một thế giới quan phồn thực tươi mát. Dưới con mắt phồn thực của bà, thiên nhiên luôn rừng rực một sức sống mãnh liệt như mời gọi, khám phá, tượng trưng cho tình yêu của trần gian (Đá ông chồng bà chồng, Kẽm trống, Hang Cắc Cớ, Hang Thánh hóa…). Nói như thi sĩ Xuân Diệu, “Xuân Hương như một nhà điêu khắc tạc cho đá sống và yêu” [92, tr.105]. Đá trở nên có da có thịt, cỏ cây cũng có tình, cũng muốn nổi tình mây mưa, huống chi là con người bằng xương bằng thịt thật, lại luôn tràn trề cảm xúc và sinh lực:
“Đá kia còn biết xuân già giặn
Chẳng trách người ta lúc trẻ trung”
(Đá ông chồng bà chồng)
Nếu Khổng giáo đề xuất tránh nhục dục, cho nhục dục là xấu xa thì Xuân Hương lại công khai ca ngợi, lại đem phô trương tất cả những “dày dày đúc sẵn một tòa thiên nhiên” đó ra giữa ánh sáng cuộc đời. Bà công khai ca ngợi thú vui của chốn phòng the. Bởi thú vui trần thế kia ai cũng muốn hưởng, bởi thú vui kia tồn tại trong mọi giai tầng xã hội, từ người bình dân đến người tôn quí, từ thứ dân đến vua chúa, ai cũng muốn thử và thử vướng vào rồi thì quên mất lối ra:
– “Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo”
– “Chồn chân mỏi gối vẫn còn ham”
– “Thú vui quên cả niềm lo cũ”
– “Ham việc làm ăn quên cả mệt”.
Như thế, tình yêu mang màu sắc tính dục và những đòi hỏi về lạc thú xác thịt chốn trần gian chính là chất men nồng nàn nhất cho sự đơm hoa kết trái của cuộc đời. Cùng khát khao và tận hưởng cuộc sống trần gian nhiều lạc thú mà cuộc đời đã ban tặng cho mỗi con người – phải chăng là thông điệp mà Xuân Hương muốn gửi cho lớp độc giả hậu thế. Đây được coi là thái độ sống tích cực, thể hiện quan điểm tiến bộ và nhân đạo với con người cá nhân, con người tự do, con người lần đầu tiên đạp đổ những ràng buộc vô lí và bất công của ngàn năm phong kiến để sống lành mạnh, thành thật với những khát vọng chính đáng của mình và đây cũng là điều làm cho thơ Nôm của Xuân Hương trẻ, thú vị mãi cùng thời gian. Cái nhìn về thú vui trần thế trong thơ Hồ Xuân Hương không chỉ trên bình diện triết lí tự nhiên mà còn phải là thứ tình yêu mạnh mẽ và say đắm:
“Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi”
(Chơi Đền Khán Xuân)
Bằng tâm hồn của một người phụ nữ nhạy cảm, bằng sự thấu hiểu thân phận của người phụ nữ đa đoan chịu nhiều bất hạnh trên đường tình ái. Xuân Hương dễ dàng ủng hộ những khát khao về một tình yêu nam nữ chính đáng, kể cả thứ tình yêu say đắm mang màu sắc tính dục mãnh liệt, tưởng chừng như không gì ngăn trở được. Nó sẵn sàng bứt tung mọi ràng buộc để thoát ra nếu không được thỏa nguyện. Sự mạnh mẽ của tình yêu trần thế đó chỉ có kích thước to lớn, vĩ đại của vũ trụ họa chăng mới đo đếm nổi. Không phải là chút tình ái ân “con con” bình thường mà phải là “bể ái”, “nguồn ân” cao lớn chất ngất, tràn trề đến “nghìn trùng”, “muôn trượng”. Và điều quan trọng là không bao giờ hết, mãi mãi không thể “tát cạn”, không dễ “khơi vơi”, còn mãi với “non sông”. Hình tượng tình ái, thú vui trần thế ấy được Hồ Xuân Hương phóng đại, to lớn, phi thường tới mức “nghịch dị”. Hồ Xuân Hương đã đưa những yếu tố “nghịch dị” mang tính chất phồn thực vào thơ Đường luật – một thể loại thơ trữ tình trang nhã, quý tộc, kiểu cung đình. Có lẽ bà muốn khẳng định một điều sự khao khát tình ái của con người cũng có thể sánh bằng sức mạnh to lớn, vô biên của vũ trụ và trường tồn cùng thời gian. Tính dục ở đây mang quyền năng của tự nhiên, thuận theo sẽ tươi tốt, họa bằng chống lại sẽ chuốc lấy đau khổ, uất hận. Chính vì sự đòi hỏi tình yêu say đắm, mạnh mẽ, tràn đầy ấy mà Hồ Xuân Hương không thể chấp nhận thứ ái tình bị chia sẻ, bị ruồng rẫy ghẻ lạnh của kiếp phận làm lẽ, kiếp chồng chung:
“Năm thì mười họa chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không”
(Lấy chồng chung)
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con” (Tự tình -2 )
Cái nhìn của Hồ Xuân Hương về thú vui trần thế, thú vui xác thịt dựa trên triết lí tự nhiên, và tình yêu mạnh mẽ say đắm là có lí do. Vì những vần thơ đó của bà là lời hát từ trái tim, từ chính cuộc đời bà và cũng là sự thể hiện sự phản kháng xã hội rõ ràng nhất. Quan hệ tính giao nhìn từ phương diện khoa học, ngoài chức năng duy trì nòi giống còn là thỏa mãn nhu cầu bản năng như một khát vọng chính đáng của con người. Nhưng chức năng thứ hai của quan hệ giới tính vẫn bị người đời coi thường – thậm chí cấm đoán. Truyền thống văn hóa và thực tế cuộc sống đã làm cho con người sống giữa những lằn ranh của luân lí. Một mặt con người khát khao hạnh phúc tình dục, mặt khác, họ lại bị tỏa chiết bởi ý thức phong kiến cho rằng: thân xác là tầm thường, quan hệ xác thịt là thú vui dâm dục của những kẻ tiểu nhân, người quân tử phải tìm cách chế ngự những dục vọng tầm thường đó. Những luân lí khô cứng đó vô tình đã đẩy con người rơi vào cuộc sống ép xác, che giấu khát khao thú vui trần thế và tình yêu hạnh phúc của mình. Họ không còn nhận ra khát vọng thật sự, khát vọng thuộc về bản chất của con người nữa. Hình ảnh vua chúa, quan lại – những kẻ đại diện cho thế lực chính trị, hay học trò, hiền nhân quân tử – được người đời coi trọng… trong thơ Hồ Xuân Hương chỉ là những đại diện cho những kẻ cố tình che đậy dục vọng, đam mê xác thịt một cách giả dối. Vẻ ngoài đạo mạo nhưng thực chất là những kẻ đầy lòng dục. Nên bà châm biếm, vua chúa cũng “yêu một cái này” (Vịnh cái quạt -1). Hồ Xuân Hương đã lột mặt nạ ngụy trang, những bình phong của bậc hiền nhân quân tử, điểm huyệt giúp họ trở về với con người thật của mình:
“Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối, chồn chân vẫn muốn trèo”
(Đèo Ba Dội)
Theo lí thuyết của M. Bakhtin, chế độ xã hội phong kiến khủng hoảng, suy thoái thì văn học càng đậm tiếng cười. Đó là tiếng cười của toàn dân mong ước giã từ cái cũ để đi tới cái mới. Tiếng cười đó sinh ra thủ pháp hạ bệ, tức lôi hết thảy những gì cao siêu, lí tưởng xuống hạ tầng phồn thực xác thịt [3, tr.1063]. Xuân Hương cũng dùng tiếng cười này để hạ bệ không chỉ những nhà sư chủ trương diệt dục mà cả bọn thống trị phong kiến từ quan đến vua, các bậc hiền nhân quân tử – những kẻ vẫn thường khoác cho mình vẻ đạo đức cao quý, là người với những chuẩn mực, những khuôn vàng thước ngọc nhưng kì thực họ cũng như bao nhiêu người khác, cũng có những ham muốn trần tục, trước những vẻ đẹp thanh nữ vẫn dậy lên sự khát khao, vẫn muốn “vin cành quýt”. Tiếng cười trong vần thơ của Xuân Hương đã kéo những quân tử với những điều cao đạo, nghiêm khắc xuống bậc bình dân, đưa họ trở về với bản chất con người trần thế của mình, với những nhu cầu tình ái rất tự nhiên, rất đời thường của con người. Với bà chúa thơ Nôm, tất cả chỉ là trần thế, chẳng có gì là siêu phàm. Nếu họ cố tình làm ra cao đạo, siêu phàm thì chỉ càng dị thường trước mắt bà. Những kẻ đại diện cho chế độ chính trị xã hội phong kiến đương thời, cũng như những đối tượng phê phán chỉ bị Xuân Hương “đứng tréo” nhìn giễu cợt, quá lắm thì bị bà úp cho “cái quạt” lên đầu chứ không mang mục đích nào khác như một số người gán cho bà. Khát vọng tình yêu, hạnh phúc, những thú vui trần thế của con người mới là vấn đề bà đề quan tâm.
Với Xuân Hương, giới tính là một lăng kính để bà tiếp cận thực tại nhân sinh. Chuyện chăn gối, tình yêu phòng the trở thành một hình ảnh phổ quát trong thơ bà. Bên cạnh những tình yêu mang màu sắc tính dục chính đáng, Xuân Hương còn đề cập đến những khát khao tình ái vượt trên những mức độ thông thường mà ở cường độ mạnh, thậm chí thái quá. Chính vì cách nhìn vấn đề thân xác và quan hệ tính giao này của bà mà Trương Tửu cho rằng bà nhìn đâu cũng thấy dâm tục. Các vần thơ bộc lộ những khát khao tình ái dữ dội, những hình ảnh bóng gió về “chuyện ấy” của Hồ Xuân Hương đôi khi đứng bên bờ vực của sự “tục tĩu hóa” văn chương. Những hành động như tát nước, đánh đu, dệt cửi, đánh trống… khỏe khoắn, lành mạnh của người lao động, dưới lớp lang ngôn ngữ của bà chúa thơ Nôm, người đọc dễ nhận thấy dụng ý thể hiện lớp nghĩa thứ hai – sở trường của bà – những hoạt động tính giao cường độ mạnh. Còn cảnh nào sôi nổi hơn khi tả cách “đánh trống” mạnh, liên tục đến nỗi “trống thủng”:
“Khi giang thẳng cánh bù khi cúi
Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi”
(Trống thủng)
Xuân Hương tái hiện đủ các tư thế đánh trống, tư thế nào cũng trong trạng thái mạnh mẽ và tất nhiên đọc câu thơ nên dễ làm người ta hình dung đến một không gian khác cũng mãnh liệt không kém. Còn cảnh nào miệt mài hơn khi “tát nước”:
“Mải việc làm ăn quên cả mệt
Dạng hang một lúc đã đầy phè”
(Tát nước)
Trước mắt người đọc cảnh lao động rộn ràng với không khí khẩn trương, với thái độ tập trung, say sưa không biết mệt mỏi, kết quả của việc tát nước thật tốt đẹp “nước” lênh láng, “đầy phè” mặt ruộng. Còn cảnh nào hăng say nào bằng lúc “dệt cửi”:
“Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau”
(Dệt cửi)
Cường độ dệt cửi mạnh mẽ, dồn dập, chắc chắn; khung cửi làm việc liên tục “đâm ngang, thích thích mau”. Tất nhiên, đọc bài thơ người ta không thể không hiểu bà muốn diễn tả điều gì. Ở một mặt nào đó người ta không thể không liên tưởng đến một khung cảnh “dệt” tình yêu không kém phần náo nhiệt hơn, say mê hơn và vui thú hơn. Đó còn là cảnh phong tình, nóng bỏng của trai thanh gái lịch đánh du:
“Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song”
(Đánh đu)
Trai thanh gái lịch thả sức mà đu người theo nhịp đưa của bốn cột, nhịp nhàng, trai thì ở tư thế “đu gối”, gái thì ở thế “uốn lưng”, họ cứ bay bổng trong không trung, dường như trong phút chốc, có thể làm người ta quên đi tất cả những mệt mỏi, sầu não chỉ còn lại cái cảm giác lâng lâng, sung sướng, như đang ở một cõi thiên thai. Sau “cuộc chơi” ấy người ta còn bần thần vì tiếc nuối “Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không”.
Và thú vui trần thế kia còn hiện diện ở cả những nơi, ở cả những đối tượng tưởng như thoát khỏi vòng lục dục – nhưng lại là những kẻ vướng vào “vòng kim cô” của thần ái tình nhiều nhất. Xuân Hương để cho họ cất tiếng ca ngợi “cực lạc là đây rõ chín mười”.
Cách thể hiện những khát khao tình ái vượt trên mức độ thông thường đó của Hồ Xuân Hương đã động chạm đến yếu tố “tục” – chỗ nhạy cảm nhất của tinh thần văn hóa Việt truyền thống. Phải chăng Hồ Xuân Hương viết như vậy để thỏa mãn ẩn ức bản thân, hay để chọc thủng pháo đài khắc dục của phong kiến và tôn giáo? Hay đơn thuần chỉ là những bài thơ mô tả công việc bình thường của người lao động? Hay chính là thái độ cởi trói của bà trong vấn đề tình dục giữa vòng vây cấm đoán của xã hội đương thời?
Qua những vấn đề mà Hồ Xuân Hương thể hiện và qua những gì người tiếp nhận tác phẩm của bà cảm nhận được, đó là những vần thơ của một kỳ nữ, những vần thơ đậm màu sắc giới tính được chưng cất bằng cuộc đời của một người đàn bà tài hoa, bằng con mắt của một người đàn bà đầy cá tính, khát sống, thèm yêu, bằng trái tim của một người phụ nữ hồn nhiên nhưng nhiều ưu tư, trăn trở trên hành trình đi tìm hạnh phúc. Với cái nhìn của phái đẹp, hóa ra mục đích cuối cùng mà Xuân Hương ngưỡng vọng kiếm tìm chỉ là việc hướng tới hạnh phúc cho con người, giải phóng người phụ nữ ra khỏi sự trói buộc nghiệt ngã, khắt khe của lễ giáo phong kiến ngàn đời. Quả không hổ danh là “Bà chúa thơ Nôm” – một thiên tài có cá tính sáng tạo độc đáo vào bậc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam. Có lẽ sẽ phải bàn thêm nữa, tốn thêm nhiều giấy mực hơn nữa, thiết nghĩ cũng chưa đủ. Có điều, lịch sử đã chứng tỏ sự đồng tình với sự phản kháng, sự cảm thông, sự trân trọng của bà về tất cả những gì liên quan đến giới nữ, đặc biệt ở vấn đề giới tính. Đặt trong giai đoạn văn học thế kỉ XVIII – XIX, đặt trong quan niệm về người phụ nữ thời đó của các nam thi sĩ, thì phải thấy rằng, Xuân Hương đã đi những bước đi thật dài trước thời đại của bà để có cái nhìn về giới tính đầy nhân văn như thế, để có tiếng nói chí tình như thế, tiếng nói ấy đã làm bao tâm hồn phải thổn thức, bao nỗi đau thầm kín của bao người phụ nữ được nâng đỡ và xoa dịu. Tiếng nói ấy của bà cũng đã và đang vượt không gian, thời gian để kết nối văn học Việt Nam với văn học thế giới, để làm hãnh diện cho văn học nước nhà. Đáng trân trọng và tự hào thay về một tài nữ như Hồ Xuân Hương.
NGHỆ THUẬT THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG
Các thủ pháp nghệ thuật luôn là một phần tạo nên sức hấp dẫn trong các tác phẩm văn chương, vì vậy các nhà văn, nhà thơ rất quan tâm khi sử dụng các thủ pháp nghệ thuật để biểu đạt các nội dung tư tưởng của mình. Ở thơ Nôm Hồ Xuân Hương, thủ pháp nghệ thuật như một phương tiện đắc địa cho bà trong biệt tài tạo nên nét nghĩa thứ hai – về vấn đề giới tính. Tiếp cận với một bài thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, ta thường thấy đó là những bài thơ mang tính đa nghĩa. Nghĩa thứ nhất là nghĩa của bản thân sự vật hiện tượng mà bà đề cập. Nghĩa ban đầu này thể hiện một cách rõ ràng, không chút mập mờ, bà đã tả, đã vịnh cái gì, vật gì thì đúng là cái ấy, vật ấy, tả người nào thì đúng là kẻ ấy, không sai lệch chút nào. Nếu ai đã từng đi qua những địa danh được đề cập đến trong thơ Xuân Hương, có thời gian dừng lại ngắm cảnh, chắc hẳn sẽ trầm trồ thán phục, chúng ta mới thấy hết cái tài vô song của nữ sĩ. Bà đã tả Kẽm Trống thì đúng như cái Kẽm Trống có thật ngoài đời, Hang Thánh Hoá, Đèo Ba Dội, Động Hương tích, cái quạt, quả mít, con ốc… cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Nghĩa thứ hai thường “lấp ló” hiện ra ngay sau khi người đọc khám phá ra nghĩa thứ nhất. Nét nghĩa này thật sự làm nên giá trị của thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Nghĩa thứ hai của tác phẩm làm cho người đọc ngạc nhiên, thích thú; vì chính họ phát hiện ra cái tiềm ẩn thú vị – cái “nhân” bên trong của ngôn từ, chứ không phải nhờ vào sự giảng giải ngữ nghĩa một cách dài dòng của ai khác. Người đời yêu thơ bà, phục bà ở điểm này, cũng là nét nghĩa tạo ra sự hấp dẫn nhất thúc bách người đọc càng ngày càng đến với bà chúa thơ Nôm nhiều hơn. Các nhà nghiên cứu về thơ Nôm Hồ Xuân Hương đã viết rất nhiều và rất hay về các thủ pháp nghệ thuật. Nếu người trình bày luận văn lặp lại điều đó thì e sẽ là một thao tác thừa. Ở đây, chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu những thủ pháp nghệ thuật dễ thấy nhất, đặc sắc nhất trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương khi thể hiện về vấn đề giới tính. Đó là: nghệ thuật sử dụng kết cấu thơ lạ và sáng tạo, cách sử dụng những biểu tượng tạo nghĩa độc đáo, cách sử dụng từ ngữ ấn tượng. Đây cũng chính là những thủ pháp nghệ thuật tạo nên ý nghĩa thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Về mặt thể tài, nữ sĩ rất thành công ở thơ Đường luật. Thơ Hồ Xuân Hương hầu hết là thơ Đường luật. Hình thức đúng là thơ Đường luật còn cách thể hiện và nội dung thì vô cùng phong phú, đầy sức sống, thoát khỏi những trói buộc của một thể loại vốn được mệnh danh là thơ quý tộc, bác học cung đình này, đúng như giáo sư Nguyễn Lộc nhận định về thơ bà: “Nữ thi sĩ này dường như mượn của văn học bác học cái phần trang sức bên ngoài để trình làng, còn nén chặt bên trong đến tràn ứ lại là cái phần hồn dân gian tràn đầy sức sống của mình” [102, tr.480].
KẾT LUẬN
Hồ Xuân Hương là một trong số những nhà thơ trong thời kì văn học trung đại mà tên tuổi đã rực sáng trên thi đàn văn học của dân tộc. Đề tài về bà, cũng như những bài thơ Nôm kì tài của bà dẫu là cả một lịch sử vấn đề đã được nghiên cứu nhưng vẫn hết sức độc đáo với bất kì ai muốn tiếp tục hành trình thú vị này. Lâu nay, vấn đề nghiên cứu về Hồ Xuân Hương và thơ văn của bà đã rất phong phú; ta thấy một tài nữ, một tài thơ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương hiện lên từ chính những bài thơ Nôm tươi rói chất cuộc đời với cả niềm vui, nỗi buồn đau, sự bướng bỉnh, hóm hỉnh rất thật. Nghiên cứu thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn giới tính thực chất là tìm hiểu quan điểm, thái độ của nhà thơ đối với những nhu cầu, khao khát hạnh phúc trần thế của con người mà đặc biệt là đối với người phụ nữ. Ta bắt gặp trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương là cả một nền văn hóa, lối sống của người Việt, hơn nữa những vấn đề mà bà đề cập còn là những vấn đề gắn liền với đời sống tình cảm, đời sống tinh thần của dân tộc, không những thế, những điều đó cũng thuộc về những vấn đề của nhân loại, thuộc mẫu số chung của nhân loại – Những vấn đề thuộc về tâm thức chung của nhân loại – Những vấn đề con người còn và mãi quan tâm, là tiếng nói tri âm về những khát khao hạnh phúc trần thế của con người. Chính vì thế, thơ Nôm Hồ Xuân Hương luôn sống trong hồn độc giả, trong lòng dân tộc – như món ăn tinh thần quý báu. Nếu như người đời thường chiêm nghiệm cuộc đời bằng việc bói Kiều thì người ta dùng thơ Nôm Hồ Xuân Hương để thổ lộ những khát khao hạnh phúc được ái ân, được sống trọn vẹn của mình.
Điều này được thể hiện ở cả hai mặt nội dung và nghệ thuật thể hiện chúng tôi thực hiện trong hai chương của luận văn. Trước hết là nội dung xoay quanh những quan niệm của bà về người phụ nữ. Từ điểm nhìn giới tính, nữ sĩ thể hiện sự bình đẳng về giới, sự tự hào về giới, ca ngợi người phụ nữ với nét đẹp hoàn mỹ về hình thể. Trong đó luôn khẳng định vấn đề giới tính là điểm độc đáo và làm nên sức hấp dẫn của thơ Xuân Hương với nhiều thế hệ, điều đặc biệt là vấn đề giới tính được thể hiện cụ thể trong những khát vọng về tình yêu – khía cạnh hoà hợp thể xác, thú vui trần thế của con người. Vấn đề giới tính không chỉ được tiếp cận trong nội dung tác phẩm mà còn được khai thác từ những thủ pháp nghệ thuật thể hiện.
Rõ ràng Xuân Hương độc đáo ngay trong cách thức thể hiện; hết sức sáng tạo trong nghệ thuật tổ chức bài thơ, độc đáo hơn cả là phá vỡ sự cân bằng của kết cấu thơ Đường luật, tạo sự cân bằng mới về ngữ nghĩa trong lối tả vịnh, là cách tạo ra những câu thơ kết mang dấu hiệu mở, là cách sử dụng những biểu tượng và từ ngữ độc đáo hướng về giới tính. Bằng thiên tài của mình, dấu hiệu của sự sáng tạo có mặt ở khắp các bài thơ trong kết cấu sáng tạo, các biểu tượng tạo nghĩa độc đáo, trong một số thủ pháp nghệ thuật chơi chữ, nghệ thuật dùng những từ ngữ mới lạ, ấn tượng. Các thủ pháp nghệ thuật này đã tạo ra một giọng thơ rất riêng, rất Hồ Xuân Hương. Tất nhiên chúng ta hiểu được điều mà Xuân Hương muốn nhắn gửi qua những hình thức nghệ thuật ấy chính là những thông điệp cuộc đời mà bà gửi lại cho người đời chẳng thể nào khác ngoài những khao khát hạnh phúc của con người. Đây cũng chính là phần đóng góp của người viết trong đề tài này.
Văn chương nghệ thuật đích thực luôn lấy con người làm trung tâm thể hiện. Những khát khao, những nỗi niềm của con người bao giờ cũng là đề tài chính cho đối tượng của văn học, cho người nghệ sĩ sáng tạo. Hồ Xuân Hương cũng không nằm ngoài quy luật sáng tạo nghệ thuật ấy. Con người cá nhân trong thơ văn trung đại, đến thế kỉ XVIII, các nhà thơ, nhà văn đã có những thay đổi trong cách nhìn về đối tượng sáng tác của mình. Con người cá nhân được đề cao với đầy đủ những cung bậc của nó. Thơ Nôm Hồ Xuân Hương cũng hòa vào dòng chảy chung của những cảm hứng về con người cá nhân đó. Hơn bất cứ nhà thơ nào trước đó, Hồ Xuân Hương bộc lộ nỗi niềm riêng, khát vọng riêng một cách tha thiết, sâu sắc. Mà mục đích đầu tiên của sự thể hiện giới tính đó là khẳng định quyền sống trọn vẹn cho con người cá nhân. Thơ Xuân Hương là tiếng lòng của một người đàn bà khao khát được yêu, được sống và yêu sống một cách trọn vẹn. Khát vọng ấy làm cho tiếng nói của Xuân Hương độc đáo, khác lạ hơn những người cùng thời với bà. Có thể nói, viết những tác phẩm mang màu sắc giới tính cũng chính là đề cập đến những cái gì thuộc về con người, cuộc đời Xuân Hương. Một cái tôi nữ giới đầy cá tính, bản lĩnh chịu đựng trước nỗi đời cay cực để giữ trọn cái sắt son.
Với những kết cấu nghệ thuật độc đáo, tác phẩm đã bao hàm nội dung cần biểu đạt. Bà muốn khẳng định triết lí sống trong thơ Nôm của mình, triết lí vì con người, vì sự sống trọn vẹn, đầy đủ những khát khao hạnh phúc. Khát khao hạnh phúc là nhân bản, là vấn đề sống còn của con người. Điều này lí giải tại sao giới tính, thân xác không phải chỉ là một khía cạnh, một góc nhỏ trong thơ Hồ Xuân Hương mà là một nội dung phổ biến bằng cả một hệ thống biểu tượng, hình ảnh.
Không hiểu tại sao nhưng mỗi khi nghĩ về nữ sĩ này, người viết luôn có cảm giác con người tài tình ấy đang đi kiếm tìm hạnh phúc…trên một con đương xa ngái – Một con đường khấp khểnh đầy nhọc nhằn của những người phụ nữ đi tìm hạnh phúc. Giống như những kẻ lang thang trên sa mạc, con người khát khao hạnh phúc, Xuân Hương như người thứ lữ cần giọt nước; dẫu chưa có được những giọt nước mát lành thì ảo ảnh về nó cũng sẽ làm dịu đi cơn khát; hạnh phúc dẫu mơ hồ, bé nhỏ, ít ỏi cũng xoa dịu phần nào nỗi khát khao của con người trong cuộc đời. Vì chút hạnh phúc nhỏ nhoi ấy người ta dám đánh cược số mệnh của mình trong vai tỳ thiếp, trong vai vợ lẽ để chấp nhận kiếm chút ít “miếng đỉnh chung”. Sống trong xã hội bất bình đẳng, một xã hội mà mọi nề nếp đạo đức đang trên đà suy thoái thì số phận con người được nhìn nhận rõ nét hơn cả. Và con người được bộc lộ mình rõ nét hơn cả chính trong cuộc mưu cầu hạnh phúc, thể hiện một cách bản chất tính người, với những khát vọng chưa bao giờ đạt được của con người. Niềm khát vọng sống hạnh phúc trọn vẹn ấy đâu phải là khát vọng của riêng Xuân Hương nữa, nó trở thành sự khát khao của tất cả những người phụ nữ mà bà là người tiêu biểu. Xuân Hương đã ôm trọn trong trái tim mình sự rỉ máu của những nỗi đau và cả niềm khát vọng sống, khát khao hạnh phúc trọn vẹn cũa cả thời đại – một thời đại người phụ nữ chịu đầy bi kịch. Xuân Hương mang trong mình nỗi niềm của Thúy Kiều, của cả người phụ nữ sẵn lòng làm thứ “cơm nguội đỡ khi đói lòng” trong ca dao. Xuân Hương thu nhận cả khát vọng ân ái của người cung nữ, cả nỗi nhung nhớ của người chinh phụ, cả khúc li biệt não nề của công chúa Ngọc Hân… Người phụ nữ càng khát khao hạnh phúc thì càng chẳng có được nó một cách trọn vẹn trong xã hội ấy. Nàng Tấm muốn yên phận cũng không được, Thúy Kiều thông minh, sắc sảo rồi cũng bị cuốn vào kiếp đoạn trường, Thị Mầu phóng túng, lẳng lơ cũng là kẻ bất hạnh, Xúy Vân liều lĩnh rồi cũng hóa dại dại điên điên… Hồ Xuân Hương không cam chịu, bà cất tiếng nói đòi quyền sống cho người phụ nữ: quyền được làm vợ, làm mẹ, quyền được yêu và hưởng hạnh phúc chăn gối một cách trọn vẹn – những quyền sống tối thiểu và thiết yếu của giới mình.
Thơ Xuân Hương là thơ của nỗi niềm, của thân phận rất riêng nhưng cũng là tiếng nói cho mọi người. Có thể nói, đề cập đến những vấn đề giới tính trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương là đề cập đến những vấn đề nhân bản. Dưới góc nhìn giới tính, chúng tôi đã tìm hiểu, phân tích, so sánh thơ bà với thơ văn cùng tư tưởng như bà trên thế giới để thấy rằng con đường đi đến với các thiên tài sáng tạo đều có điểm chung đó là các vấn đề con người làm cho “người gần người hơn”.