ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khỏe sinh sản (SKSS) và sức khỏe tình dục (SKTD) là những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần của vị thành niên, thanh niên (VTN, TN). Đầu tư cho chăm sóc SKSS, SKTD là đầu tư cho sự phát triển của quốc gia, dân tộc, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Ngay tại Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển năm 1994 (ICPD), nguyên thủ hơn 190 quốc gia tham dự đã cam kết thực hiện Chương trình hành động của ICPD (ICPD PoA) trong đó chăm sóc SKSS, SKTD cho phụ nữ, trẻ em gái luôn là ưu tiên cùng với việc giáo dục, phát triển nghề nghiệp, tạo cơ hội việc làm, xóa bỏ các hình thức đối xử bất công với phụ nữ, đặc biệt là trẻ em gái… Tại các Hội nghị đánh giá thực hiện PoA của Liên hợp quốc, việc tổ chức mạng lưới cung cấp dịch vụ đặc thù (dịch vụ thân thiện – YFS), có chất lượng, phù hợp với nhóm tuổi, văn hóa mỗi quốc gia đều được đề cập, đặc biệt là việc giáo dục SKSS, SKTD toàn diện (CSE) bao gồm cả kỹ năng sống và sự tham gia của VTN, TN trong toàn bộ quá trình xây dựng chính sách, tổ chức thực hiện, theo dõi giám sát, đánh giá như là những yêu cầu tiên quyết đối với sức khỏe và sự phát triển của VTN, TN.
Trong Chiến lược toàn cầu về sức khỏe phụ nữ, trẻ em và vị thành niên năm 2016, để hướng tới thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững vào năm 2030, Liên hợp quốc cũng đã nhấn mạnh việc chăm sóc SKSS, SKTD cho VTN, TN thông qua tăng cường đầu tư cho chăm sóc sức khỏe, tăng độ bao phủ phổ cập (UHC), phát huy vai trò lãnh đạo của các cấp chính quyền, sự tham gia của các cá nhân và cộng đồng trong chăm sóc sức khỏe.
Mặc dù Việt Nam đạt được những thành công nhất định trong chăm sóc SKSS, SKTD cho VTN, TN, nhưng vẫn còn một số những bất cập như kiến thức, kỹ năng về chăm sóc SKSS, SKTD của VTN, TN còn hạn chế; giáo dục về SKSS, SKTD chưa tiếp cận được ở diện rộng; việc cung cấp thông tin, dịch vụ thân thiện về SKSS, SKTD chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của VTN, TN. Tình trạng quan hệ tình dục sớm, quan hệ tình dục không an toàn, mang thai ngoài ý muốn và phá thai không an toàn, nguy cơ lây nhiễm bệnh lây truyền qua đường tình dục. của VTN, TN vẫn chưa được cải thiện đáng kể, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, vùng sâu, các khu công nghiệp tập trung; ở nhóm VTN, TN yếu thế (dân tộc thiểu số, khuyết tật, đồng giới nam…). Kế hoạch tổng thể quốc gia về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe vị thành niên và thanh niên Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, định hướng đến năm 2020 (ban hành theo Quyết định số 2010/QĐ-BYT ngày 07/6/2006) không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của Việt Nam. Vì vậy, bản Kế hoạch hành động quốc gia về chăm sóc SKSS, SKTD của VTN, TN giai đoạn 2020 – 2025 được xây dựng nhằm đưa ra các giải pháp giải quyết những bất cập nêu trên.