Người lái đò sông Đà là câu chuyện về nét đẹp lao động của cong người nhỏ bé mà có tầm vóc lớn lao trước nền cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Cùng nhau làm bài văn Nghị luận văn học Người lái đò sông Đà để hiểu rõ hơn về những giá trị nội dung cũng như nét bút nghệ thuật của tác giả Nguyễn Tuân.
Nghị luận văn học Người lái đò sông Đà
Mở bài nghị luận văn học Người lái đò sông Đà
Nói về Nguyễn Tuân là người ta nghĩ ngay đến một nhà văn sẽ tìm kiếm cái đẹp suốt đời. Vẻ đẹp trong các tác phẩm của ông phải đạt đến sự hoàn hảo và tuyệt mỹ. Sự nghiệp viết lách của Nguyễn Tuân đạt được nhiều thành tựu, cả trước và sau cách mạng. “Người lái đò sông Đà” được trích từ cuốn tùy bút “Sông Đà” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám.
Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để tìm kiếm “chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của những người ở đây.
Xem thêm:
Dàn ý phân tích hình tượng người lái đò sông Đà trong tùy bút Người lái đò sông Đà
Dàn ý phân tích hình tượng con sông Đà trong người lái đò sông Đà
Thân bài nghị luận người lái đò sông Đà
Nghị luận Người lái đò sông Đà ta thấy ở ngay trong những câu đầu tiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện rõ sự hung dữ của sông Đà. Dòng sông không nổi giữa hai bờ “cát trắng phẳng lì” thơ mộng nhưng bờ sông “dựng vách thành”, vút lên, thẳng đứng.
Dòng sông hẹp đến nỗi “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”. “Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”, sự lạnh lùng của từng lớp da, nỗi sợ hãi trước thiên nhiên ở đây.
Khi trải qua khoảng thời gian này, mọi người cảm thấy như tôi “đang đứng ở một cái ngõ nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Với hàng loạt hình ảnh khắc họa, Nguyễn Tuân đã đẩy độc giả từ những con phố đô thị đến khung cảnh hoang sơ đáng sợ của thiên nhiên sông nước. Người ta nhìn thấy trước mắt rằng một đoạn sông Đà sâu, hẹp, tối và lạnh đủ để bất cứ ai đến đây run rẩy.
Nghị luận Người lái đò sông Đà
Đi qua rất nhiều ghềnh thác, đáng sợ nhất là ghềnh Hat Loong. “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Kết cấu giống hệt nhau, nhịp điệu nhanh và mạnh mẽ của văn bản khiến người đọc không sợ âm thanh của sóng, gió, nước và đá.
Từ hoang dã “cuồn cuộn”, “gùn ghè” Đồng thời, âm thanh khủng khiếp của nơi này được gợi lên trong khi gợi lên những hình ảnh khủng khiếp của nơi này. Sông Đà được miêu tả là người đàn ông sẵn sàng “đòi nợ xuýt” người trên sông. Nó có thể gây ra nhiều nguy hiểm mà con người không thể lường trước được. Điều đó vẫn không bao gồm tất cả sự đáng sợ của sông Đà. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt các nghệ thuật khác nhau để miêu tả sự tàn bạo của nước sông Đà.
Nhìn từ xa, xoáy nước trên sông trông giống như một lúm đồng tiền trên má của một cô gái, nhưng nó không quyến rũ, dễ thương, và thay vào đó nó có thể kéo một chiếc thuyền xuống lòng sông và đập vỡ cơ thể.
Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn so sánh máy hấp thụ nước với giếng bê tông rơi xuống sông để chuẩn bị nền móng cầu. Hình ảnh so sánh này vừa gợi lên độ sâu hút thuốc của xoáy nước vừa khiến người đọc sợ hãi khi hình dung ra nó.
Sợ hãi hơn khi đọc các câu mô tả âm thanh của lượng nước. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”. Không chỉ đổ vào nước nhiều và nhanh chóng, mà còn nuốt như vừa đổ dầu sôi. Từ “ặc ặc” gợi lên cảm giác sông Đà như một con quái vật dưới nước bị thanh quản ép, vật lộn và vật lộn.
Xem thêm:
Phân tích người lái đò sông Đà chi tiết, hay nhất ngữ văn 12
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà chi tiết
Sự bạo lực này khiến người viết nghĩ đến một người quay phim táo tợn mang theo một chiếc máy ảnh ngồi trên thuyền thúng xuống hút nước sông Đà và sau đó lật ngược ống kính để ghi lại cảnh tượng đáng sợ: một giếng xanh giống như kính dường như bị vỡ, rơi xuống cơ thể. Cây bút sắc bén của Nguyễn Tuân khiến độc giả có cảm giác như đang xem một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng sợ.
Nghị luận Người lái đò sông Đà không thể bỏ qua sự hung dữ. Sự hung dữ này cũng được miêu tả qua các thác nước. Các nhà văn hướng dẫn độc giả chú ý đến âm thanh của họ và mô tả theo trình tự từ xa đến gần. “Còn xa lắm mới đến cái thác” nhưng địa tâm và ngoại hình thứ cấp “kẻ thù số một của con người” đã dần dần xuất hiện.
Chúng đi kèm với âm thanh “réo gần mãi lại réo to mãi lên”. “Tiếng thác nghe như là oán trách, nghe như là van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Sự kết hợp khéo léo giữa so sánh và nhân văn hóa đã làm cho sông Đà xuất hiện với một địa tâm phức tạp.
“Thế rồi nó rống lên”, âm thanh được tối đa hóa như thể nó đang ở đỉnh cao của một sự phấn khích hoang dã. Nguyễn Tuân cũng so sánh âm thanh của thác nước sông Đà với âm thanh của hàng ngàn con trâu nước phun nước để phá hủy bao vây rừng lửa.
Và để gia tăng sự tàn bạo của sông Đà, Nguyễn Tuân cũng chỉ đạo cây bút của mình mô tả đá sông. Hình ảnh ẩn dụ “cả một chân trời đá” gợi lên cảm giác vô số tảng đá trên sông Đà. Những tảng đá sông Đà được Nguyễn Tuân thổi hồn vào đó với từng viên đá mặt đá trông cũng vậy “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Sau đó, họ cũng bao vây vào một trận chiến đá như một trận chiến tám quái vật trên sông Đà.
Xem thêm:
Top 5 mở bài người lái đò sông Đà hay nhất
Soạn bài người lái đò sông Đà đầy đủ
Qua cây bút của Nguyễn Tuân, dòng sông dữ dội này không khác gì kẻ thù số một của con người. Nhưng ngay sau đó, khi bạo lực kết thúc, nó lại xuất hiện với một bản vẽ trữ tình, thơ mộng không thể tin được.
Nhìn xuống từ máy bay “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”. Với việc ví sông Đà “như một áng tóc trữ tình”, Nhà văn đã làm cho dòng sông xuất hiện với sự quyến rũ của một người phụ nữ.
Thông thường, mọi người sẽ thấy rằng từ “áng” thường được sử dụng để chỉ các tác phẩm nghệ thuật, nhưng Nguyễn Tuân ở đây đề cập đến sông Đà. Khi nghị luận văn học Người lái đò sông Đà có thể thấy trong tâm trí tác giả rằng sông Đà giống như một tác phẩm nghệ thuật mà Đấng Sáng Tạo đã sáng tạo ra.
Sông Đà không chỉ đẹp về hình dáng mà còn đẹp về màu nước. Tác giả đã quan sát dòng sông trong thời gian và không gian khác nhau. Màu xanh ngọc lục bảo mùa xuân, cả màu xanh trong và óng ánh. Rơi xuống nước sông có màu đỏ chín vì da mặt người bị bầm tím do rượu. Thông qua các mô tả chi tiết và cụ thể và so sánh độc đáo, sông Đà xuất hiện cả đẹp và đa dạng, và thông qua đây chúng ta cũng thấy sự hiểu biết sâu rộng của nhà văn cũng như khả năng quan sát tinh tế.
Bờ sông Đà mênh mông và trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. Câu được chia thành nhiều đoạn, tạo ra một nhịp độ hối hả và nhanh chóng. Rồi khi nhìn từ trên thuyền xuống, sông Đà có cái nhìn “trầm lặng”, im lặng tuyệt đối.
Sự tĩnh yên của dòng sông ẩn trong đó là một sức sống dồi dào. Nhà văn cũng sử dụng những so sánh cực kỳ gợi cảm khi mô tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn đã sử dụng các khái niệm trừu tượng để mô tả vẻ đẹp cụ thể của sông Đà khiến sông Đà xuất hiện không chỉ là dòng chảy của không gian mà còn là dòng sông của thời gian.
Xem thêm:
Dàn ý nghị luận Người lái đò sông Đà
Dàn ý cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà
Câu “thuyền tôi trôi trên sông Đà” gợi lên sự yên tĩnh của sông Đà và sự thanh thản của tâm hồn con người. Giữa khung cảnh lãng mạn đó, người viết nghe tiếng còi sương mù – tiếng còi của một chuyến tàu đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu, đó là âm thanh của một cuộc sống hiện đại, đầy đủ.
Có thể thấy, những câu mô tả nét đẹp trữ tình và thơ mộng của sông Đà đã tạo nên một giai điệu đậm chất thơ mộng. Thơ ca trong khung cảnh sông Đà, bản chất thơ mộng của tâm hồn con người.