Phong trào Cần Vương là một trong những phong trào nổi bật trong lịch sử đấu tranh chống thực dân Pháp do tính chất của phong trào và độ phát triển mạnh mẽ trong quân chúng nhân dân thời điểm bấy giờ. Phong trào Cần Vương diễn ra từ năm 1885 – 1896. Hãy cùng Download.vn theo dõi bài viết dưới đây để tìm hiểu về diễn biến, tính chất, các giai đoạn phát triển, nguyên nhân thất bại của phong trào Cần Vương nhé.
Mục đích của phong trào Cần Vương là đánh đuổi quân xâm lược Pháp để khôi phục nhà nước phong kiến đã sụp đổ, nhưng mục đích lớn nhất trước mắt là đánh giặc cứu nước, đó là yêu cầu chung của cả dân tộc. Do mục đích này cho nên sau khi vua Hàm Nghi bị bắt, từ 1888 – 1896 không cò sự chỉ đạo của triều đình nhưng phong trào vẫn tiếp tục phát triển quyết liệt. Vậy sau đây là toàn bộ kiến thức về phong trào Cần Vương, mời các bạn cùng đón đọc.
I. Cần Vương có nghĩa là gì?
Cần Vương có nghĩa là giúp vua, phò vua giúp nước. Trong lịch sử Việt Nam, đã từng có những lực lượng nhân danh giúp nhà vua như thời Lê sơ, các cánh quân hưởng ứng lời kêu gọi của vua Lê Chiêu Tông chống lại quyền thần Mạc Đăng Dung.
Tuy nhiên, phong trào này không để lại nhiều dấu ấn. Cho nên khi nhắc tới Cần Vương, người ta thường nghĩa tới phong trào chống Pháp xâm lược.
II. Tìm hiểu về Chiếu Cần Vương?
Về cơ bản, Chiếu Cần Vương tố cáo tội ác của thực dân xâm lược, đồng thời lên án tính bất hợp pháp của triều đình tay sai do thực dân Pháp lập lên, tố cáo sự phản bội của một số quan lại triều đình. Ngoài ra chiếu Cần Vương còn khẳng định quyết tâm kháng chiến của triều đình mà đứng đầu là vua Hàm Nghi, từ đó thôi thúc, kêu gọi và khích lệ các sĩ phu, văn thân cũng như nhân dân cả nước cùng tham gia kháng chiến giúp vua khôi phục quốc gia phong kiến độc lập.
Từ đây có thể thấy chiếu Cần Vương đem lại những ý nghĩa nhất định trong lịch sử, là:
- Chiếu Cần Vương kêu gọi toàn thể nhân dân cùng tham gia chống Pháp, khôi phục lại nền độc lập, chế độ phong kiến;
- Khẩu hiệu này đã nhanh chóng thổi bùng lên ngọn lửa tình yêu quê hương và lòng căm thù quân xâm lược của toàn thể nhân dân nước Nam, từ đó một phong trào vũ trang chống thực dân Pháp đã diễn ra sôi nổi và kéo dài hơn 12 năm.
III. Nguyên nhân bùng nổ phong trào Cần Vương
Sau khi cuộc phản công tại kinh thành Huế thất bại, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi ra khỏi Hoàng thành, rồi chạy ra sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị).
Ngày 13-7-1885, Tôn Thất Thuyết lấy danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương. Chiếu Cần Vương nhanh chóng thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong nhân dân, thành một phong trào vũ trang chống Pháp sôi nổi, liên tục kéo dài trong hơn 10 năm mới chấm dứt.
=> Cuộc phản công kinh thành Huế thất bại, Tôn Thất Thuyết lấy danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương là nguyên nhân trực tiếp làm bùng nổ phong trào Cần Vương.
IV. Phong trào Cần Vương bùng nổ trong hoàn cảnh nào
Hoàn cảnh bùng nổ Phong trào Cần Vương như sau:
– Sau hai Hiệp ước Hác-măng và Pa-tơ-nốt, Pháp đã hoàn thành về cơ bản cuộc xâm lược Việt Nam, thiết lập chế độ bảo hộ ở Bắc Kì và Trung Kì.
– Phái chủ chiến trong triều đình Huế, đại diện là Tôn Thất Thuyết mạnh tay hành động, phế bỏ những ông vua thân Pháp, đưa Hàm Nghi lên ngôi, bí mật xây dựng sơn phòng, tích trữ lương thảo và vũ khí để chuẩn bị chiến đấu.
– Đêm ngày 4 rạng ngày 5-7-1885, Tôn Thất Thuyết hạ lệnh tấn công Pháp tại đồn Mang Cá, toà Khâm sứ. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt. Pháp phản công, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị).
– Ngày 13-7-1885, Tôn Thất Thuyết mượn danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương kêu gọi văn thân, sĩ phu, nhân dân cả nước đứng lên vì vua mà kháng chiến.
⟹ Phong trào Cần Vương bùng nổ.
V. Các giai đoạn phát triển của phong trào Cần Vương
Phong trào Cần Vương phát triển qua hai giai đoạn:
- Giai đoạn I (1885 – 1888): Phong trào bùng nổ trên khắp cả nước
- Giai đoạn II (1888 – 1896): Phong trào quy tụ các cuộc khởi nghĩa lớn
Nội dung
Giai đoạn thứ nhất (1885 – 1888)
Giai đoạn thứ hai (1888 – 1896)
Lãnh đạo
Vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết, văn thân, sĩ phu yêu nước.
Văn thân, sĩ phu yêu nước.
Lực lượng
Đông đảo nhân dân, có cả dân tộc thiểu số.
Đông đảo nhân dân, có cả dân tộc thiểu số.
Địa bàn
– Rộng lớn, khắp Bắc và Trung Kì.
– Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng ở Bình Định, đề đốc Tạ Hiện (Thái Bình), Nguyễn Thiện Thuật (Hưng Yên),…
– Thu hẹp, quy tụ dần thành các trung tâm lớn, chuyển trọng tâm hoạt động lên vùng trung du và miền núi.
– Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh do Cao Điển và Tống Duy Tân lãnh đạo, khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo,…
Kết quả
Cuối năm 1888, do sự phản bội của Trương Quang Ngọc, vua Hàm Nghi rơi vào tay giặc và chịu án lưu đày sang An-giê-ri (Bắc Phi).
Năm 1896, phong trào Cần Vương chấm dứt.
Đặc điểm
– Phong trào diễn ra dưới danh nghĩa “Cần vương”.
– Phát huy cao độ lòng yêu nước, huy động sự ủng hộ của đông đảo nhân dân.
– Nổ ra lẻ tẻ, rời rạc, chưa tạo thành sự liên kết giữa các cuộc khởi nghĩa.
– Mặc dù nhà vua đã bị bắt, phong trào vẫn diễn ra sôi nổi.
– Phát huy cao độ lòng yêu nước, huy động sự ủng hộ của đông đảo nhân dân.
– Nổ ra lẻ tẻ, rời rạc, chưa tạo thành sự liên kết giữa các cuộc khởi nghĩa.
VI. Diễn biến của phong trào Cần Vương
*Giai đoạn I (1885 – 1888): Phong trào bùng nổ trên khắp cả nước
Hưởng ứng lời kêu gọi chiếu Cần Vương, nhiều văn thân, sĩ phu và nhân dân yêu nước đứng lên, tập hợp các nghĩa binh, xây dựng căn cứ khởi nghĩa. Họ đấu tranh mạnh mẽ quyết liệt trước thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai trên các địa bàn rộng lớn thuộc Bắc và Trung Kì. Nhiều tướng lĩnh đã tham gia chỉ huy như Phan Đình Phùng, Trần Xuân Soạn, Phàm Bành,
Triều đình Hàm Nghi với sự phò tá trợ giúp của Tôn Thất Đàm và Tôn Thất Nghiệp (là hai người con của Tôn Thất Thuyết). Dưới sự đàn áp của thực dân Pháp, vua Hàm Nghi phải rút lui và chiến đấu ở vùng núi Quảng Bình, sau đó lui về Ấu Sơn (Hà Tĩnh).
Tháng 6/1886, Triều đình Đồng Khánh của thực dân Pháp theo lệnh toàn quyền Pháp xuống dụ kêu hàng. Thế nhưng, không ai trong triều đình Hàm Nghi chịu đầu hàng buông súng.
Trong giai đoạn này, các cuộc đấu tranh chỉ dừng lại ở phạm vi nhất định, còn riêng lẻ. Các cuộc khởi nghĩa lần lượt nổ ra ở hầu hết các vùng Bắc Kì và Trung Kì.
Cuối năm 1888, do sự phản bội của Trương Quang Ngọc nên vua Hàm Nghi bị bắt và đày đi Angieri. Phong trào Cần Vương giai đoạn thứ nhất kết thúc.
Giai đoạn II (1888 – 1896): Phong trào quy tụ các cuộc khởi nghĩa lớn
Từ cuối năm 1888, mặc dù không còn sự lãnh đạo trực tiếp từ triều đình nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục diễn ra. Nhiều văn thân, sĩ phu yêu nước đứng lên lãnh đạo và phát triển thành nhiều cuộc khởi nghĩa lớn, với tổ chức cao hơn
Một số cuộc khởi nghĩa lớn tiêu biểu đã diễn ra như: cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao Thắng, khởi nghĩa Hùng Lĩnh do Tống Duy Tân lãnh đạo, khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy,….
Trong giai đoạn này, nhiều cuộc khởi nghĩa lớn đã nổ ra nhưng thực dân Pháp cũng tăng cường lực lượng truy quét. Do đó, để duy trì và phát triển, các nghĩa quân phải liên tục di chuyển địa bàn hoạt động, từ đồng bằng lên vùng trung du và miền núi.
Phong trào Cần Vương giai đoạn này vẫn hoạt động riêng lẻ, chưa có sự thống nhất giữa các cuộc khởi nghĩa lớn. Tính địa phương của các khởi nghĩa dẫn đến sự thiếu lãnh đạo và liên kết. Các cuộc khởi lần lượt thất bại dưới sự đàn áp liên tục của quân đội Pháp.
Năm 1896, phong trào Cần Vương kết thúc.
VII. Tính chất của phong trào Cần Vương
– Tính chất của phong trào Cần Vương là phong trào yêu nước chống thực dân Pháp theo ý thức hệ phong kiến, thể hiện tính dân tộc sâu sắc.
+ Phong trào Cần Vương cuối thế kỉ XIX thực chất là một phong trào yêu nước của nhân dân chống Pháp giành độc lập cho đất nước là bởi vì nó là đã tiếp lối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta, không phải từ khi bắt đầu có chiếu Cần Vương mà đã được chuẩn bị ngay sau khi triều đình Huế kí Hiệp ước Quý Mùi (1883). Đáp lại việc kí hiệp ước đầu hàng, phong trào kháng chiến của nhân dân bùng nổ khắp nơi. Sự phân hóa trong giới quan lại của triều đình đã dẫn đến cuộc tấn công quân Pháp ở kinh thành Huế và ngay sau đó, khi có chiếu Cần Vương, phong trào hưởng ứng chủ trương Cần Vương cứu nước diễn ra sôi nổi từ 1885 – 1 896.
+ Mục đích của phong trào Cần Vương là đánh đuổi quân xâm lược Pháp để khôi phục nhà nước phong kiến đã sụp đổ, nhưng mục đích lớn nhất trước mắt là đánh giặc cứu nước, đó là yêu cầu chung của cả dân tộc.
+ Chính mục đích này đã chi phối nên sau khi vua Hàm Nghi bị bắt, từ 1888 – 1896 không có sự chỉ đạo của triều đình nhưng phong trào vẫn tiếp tục phát triển quyết liệt.
+ Lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa không phải là các võ quan triều đình mà chủ yếu là các văn thân sĩ phu yêu nước có chung một nỗi đau mất nước với quần chúng lao động nên đã tự nguyện đứng về phía nhân dân chống Pháp xâm lược.
+ Lực lượng tham gia kháng chiến chủ yếu là các văn thân, sĩ phu, nông dân yêu nước.
VIII. Nguyên nhân thất bại của phong trào Cần Vương
Nguyên nhân thất bại của phong trào Cần Vương có rất nhiều nguyên nhân như sau:
- Tính chất địa phương: Phong trào Cần Vương thất bại có nguyên nhân đến từ sự kháng cự chỉ có tính chất địa phương. Các lãnh đạo của phong trào chỉ có uy tín tại địa phương nơi xuất thân, khi họ bị bắt hoặc giết thì nghĩa quân đầu hàng hoặc giải tán.
- Thiếu sự quy tụ và đường lối lãnh đạo: Phong trào Cần Vương vẫn chưa hội tụ và tập hợp được thành một khối thống nhất; chưa có phương hướng hoạt động cũng như đường lối chiến lược rõ ràng đủ mạnh để chống Pháp
- Quan hệ với nhân dân: Các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương không lấy được sự tin tưởng từ nhân dân bởi gốc rễ chưa xuất phát từ nông dân. Các đạo quân còn đi cướp bóc của dân chúng.
- Mâu thuẫn với tôn giáo: Việc xung đột với Công giáo của quân Cần Vương buộc nhiều giáo dân phải tự vệ bằng cách kết nối thông đồng với thực dân Pháp. Theo thống kê của người Pháp cho biết, có hơn 20.000 giáo dân đã bị quân Cần Vương giết hại.
- Mâu thuẫn sắc tộc: Sự sai lầm trong chính sách sa thải các quan chức Việt, cho dân tộc thiểu số quyền tự trị khiến các sắc dân này đã đứng về phía Pháp. Chính người Thượng đã bắt Hàm Nghi. Các bộ lạc Thái, Mán, Mèo, Nùng, Thổ đều đã cắt đường liên lạc của quân Cần Vương. Họ cũng giúp quân Pháp chiến tranh phản du kích đầy hiệu quả.
- Vũ khí: Với vũ khí tự túc, thô sơ, quân Cần Vương khó mà đối đầu với vũ khí hiện đại của quân đội Pháp.
- Lực lượng chênh lệch: Lực lượng của phong trào Cần Vương quá chênh lệch so với đội quân hùng mạnh của Pháp. Họ chỉ có thể tấn công vào những chỗ yếu, sơ hở của địch; không đủ khả năng thực hiện chiến tranh trực diện với lực lượng của địch.
- Tinh thần chiến đấu: Ngoại trừ một số thủ lĩnh có tinh thần chiến đấu đến cùng và hi sinh vì nước, không ít thủ lĩnh quân khởi nghĩa nhanh chóng buông vũ khí đầu hàng khi tương quan lực lượng bắt đầu bất lợi. Vì vậy mới khiến phong trào nhanh chóng suy yếu và tan rã.