Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Vậy tại sao nói thực tiễn là cơ sở, mục đích của nhận thức? Mời bạn theo dõi bài viết dưới đây
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
1. Bản chất của nhận thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức. Bằng sự kế thừa những yếu tố hợp lý, phát triển, phát triển một cách sáng tạo và được mình chứng bởi những thành tự khoa học, kỹ thuật, của thực tiễn xã hội, C. Mác và Angghen đã xây dựng nên học thuyết về nhận thức. Học thuyết về nhận thức được xây dựng dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý thức của con người. Hai là, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người. Coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể. Không có cái gì là không thể nhận thức được mà chỉ có cái con người chưa nhận thức được nhưng sẽ nhận thức được. Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh ấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, đi từ hiện tượng đến bản chất và từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Dựa trên những nguyên tắc cơ bản đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định như sau: Về bản chất, nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc người trên cơ sở thực tiễn.
2. Đặc điểm của thực tiễn:
Thứ nhất, thực tiễn là hoạt động có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Bởi khác với hoạt động tư duy, hoạt động thực tiễn là hoạt động mà con người sử dụng những công cụ vật chất để tác động vào những đối tượng vật chất làm chúng biến đổi theo những mục đích của mình. Những hoạt động này là những hoạt động đặc trưng của con người, nó mang tính bản chất. Qua các thời kỳ lịch sử hoạt động này vẫn không ngừng được phát triển. Do đó, thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và nó mang tính lịch sử – xã hội.
Thứ hai, biểu hiện của thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú và đa dạng. Cụ thể có 3 hình thức cơ bản sau:
– Hoạt động sản xuất vật chất chính là hình thức hoạt động đầu tiên và cơ bản của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để từ đó tạo ra của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại cũng như phát triển của chính bản thân mình và xã hội.
– Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển
– Thực nghiệm khoa học là một trong những hình thức đặc biệt của thực tiễn. Đây cũng là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp đi lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội để từ đó xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Các hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn đều có những chức năng riêng, những chức năng này đều rất quan trọng và chúng không thể thay thế được cho nhau song giữa chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau
3. Vì sao nói thực tiễn là cơ sở, mục đích của nhận thức? Nêu ví dụ?
3.1. Thực tiễn là cơ sở, mục đích của nhận thức:
Ta nói thực tiễn là cơ sở, mục đích của nhận thức xuất phát từ một trong những vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Ngoài ra nhận thức còn có vai trò là động lực của nhận thức và chính là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Sở dĩ thực tiễn là cơ sở, mục tiêu của nhận thức như vậy vì thực tiễn chính là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức. Nó đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Các nhu cầu của chính con người có nhu cầu tất yếu khách quan là giải thích và cải tạo thế giới mà buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, các mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Dựa trên cơ sở đó mà hình thành nên các lý thuyết khoa học. Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của con người cần phải “đo đạc diện tích và đong lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí” mà toán học đã ra đời và phát triển. Hoặc sự xuất hiện học thuyết mácxít vào những năm 40 của thế kỷ XIX cũng bắt nguồn từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản bấy giờ. Ngay cả những thành tựu khoa học mới đây nhất là khám phá và giải mã bản đồ gen người cũng ra đời từ chính hoạt động thực tiễn, từ nhu cầu đòi hỏi phải chữa trị những căn bệnh nan y và từ nhu cầu tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người… Có thể nói, suy cho cùng không có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do đó, nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Vì vậy, chủ thể nhận thức không thể có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới.
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức còn là vì nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy logic không ngừng được củng cố và phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại, có tác dụng “nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà nó còn đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Điều này có nghĩa là thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Do đó, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Nhấn mạnh vai trò đó của thực tiễn, V.I.Lênin đã viết: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa
3.2. Ví dụ:
– Ví dụ thực tiễn là mục đích của nhận thức:
+ Để có thể chống lại dịch bệnh COVID-19, nhiều quốc gia trên toàn thế giới đều đã cố gắng sản xuất ra vaccine chống lại dịch bệnh này. Do đó, ta nhận thấy, xuất phát từ thực tiễn khi dịch bệnh đang có chiều hướng nghiêm trọng và nguy hiểm cho sự sống của con người cho nên đòi hỏi các nhà nghiên cứu đã chế tạo ra các loại vaccine nhằm mục đích bảo vệ con người khỏi loại dịch bệnh này
+ Việc làm giảm ô nhiễm tiếng ồn trong môi trường sống hàng ngày rất quan trọng cho nên mọi người đã tạo ra các vật liệu cách âm nhằm mục đích giảm ô nhiễm tiếng ồn
– Ví dụ thực tiễn là cơ sở của nhận thức:
+ Hiện nay việc mua sắm nhu yếu phẩm tại nhà đang tăng cao, để đáp ứng việc vận chuyển hàng hóa đến mọi người các dịch vụ chuyển đồ ăn nhanh đã ra đời như Bemin, shopeefood,…
+ Cuộc sống ngày càng phát triển dẫn đến tình trạng các bạn trẻ thường có ít thời gian để hẹn hò và tìm người phù hợp để kết hôn cho nên các chương trình ghép đôi và app hẹn hò được đưa vào sử dụng rộng rãi